Monday, December 29, 2025
Home Blog Page 476

Hậu Quả Của Việc Chính Quyền Ông Trump Cắt Ngân Khoản Tài Trợ Nghiên Cứu Khoa Học và Y Dược

Trong suốt phần lớn của lịch sử Hoa Kỳ, nước Mỹ chỉ là quốc gia hưởng lợi nhờ những tiến bộ, phát minh về y tế của thế giới. Trước đây, Hoa Kỳ không đóng vai trò đầu máy chủ lực trong việc sáng chế ra những phát minh quan trọng. Nhiều tên tuổi lớn như Pasteur, Kock, Lister, Mendel, Curie, Fleming- đều là người Âu châu, không phải là người Mỹ. Họ đã làm ra những loại thuốc tối tân cho y học. Song kể từ Thế Chiến thứ Hai, cán cân phát minh khoa học nghiêng hẳn về phía Hoa Kỳ. Tổng thống Franklin Roosevelt  cho thành lập Sở Nghiên Cứu và Phát Minh Khoa Học- Office of Scientific Research and Development. Ông mời cựu khoa trường trường đại học bách khoa M.I.T, Vannevar Bush, đứng ra lãnh đạo Sở Nghiên Cứu Khoa Học. Chỉ trong vòng vài năm, Sở Nghiên Cứu Khoa Học đã phát minh ra  thuốc chữa bệnh sốt rét, thuốc chủng ngừa bệnh cúm, kỹ thuật chế tạo thuốc trụ sinh Penicillin, ở mức độ sử dụng dễ dàng, và sau đó lại còn sáng chế ra công thức làm bom nguyên tử. Ông Khoa Trưởng Vannevar Bush trở thành một nhân vật hàng đầu cổ vũ việc chính phủ đứng ra tài trợ những công trình nghiên cứu. Ông giúp lập ra tổ chức National Science Foundation, và ông cũng tìm cách canh tân Viện Y Tế Quốc Gia– National Institutes of Health, bây giờ là N.I.H. Chính ông viết như sau: “Nếu không đạt được những tiến bộ khoa học, sẽ không có con đường nào khác để làm ra  những kết quả kỳ diệu để đảm bảo một nền y tế tốt, sự thịnh vượng, và nền an ninh của một quốc gia.”.

Nhờ viễn kiến nhìn xa trông rộng của ông Bush, nên người Mỹ đã chiếm được vị thế độc tôn, chế ngự thế giới về nghiên cứu khoa học trong suốt gần một thế kỷ. Nhờ ngân khoản do chính phủ liên bang cung cấp, nên mới có những phát minh thần kỳ  trong thời đại hiện nay, như: sử dụng internet, AI –  Thông Minh Nhân Tạo, CRISP, Ozempic (thuốc giảm cân, chữa bệnh tiểu đường loại 2), chế tạo được thuốc chủng ngừa nhanh chóng nhờ phương pháp mRNA, nhờ vậy mà chúng ta đã cứu được hàng triệu mạng người khi dịch COVID xảy ra. Trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2019, có khoảng hơn 350 loại thuốc được chính phủ Hoa Kỳ chấp thuận cho sử dụng. Phần lớn những loại thuốc này xuất phát từ các công trình nghiên cứu, phát minh được Viện Y Tế Quốc Gia cung cấp ngân khoản- N.I.H. Cơ quan này phát triển và trở thành nguồn cung cấp ngân khoản lớn nhất thế giới cho những công trình nghiên cứu về sinh học, và y khoa, với ngân sách $48 tỷ đô la được dành ra để tài trợ cho những công trình nghiên cứu khoa học của khoảng hàng chục ngàn nhà khoa học  ở khắp nơi. Theo ước tính sơ khởi, cứ mỗi đồng đô la bỏ ra để tài trợ, chúng ta thu hoạch được khoảng năm đô la lợi lạc về mặt xã hội, chẳng hạn như giúp phát triển kinh tế, hay nâng cao mức sống.

Từ ngày trở lại Bạch Cung, ông Donald Trump đã lật ngược lại tất cả chủ trương, chính sách từng được cả lưỡng đảng đồng thuận là cần để chính phủ cung cấp ngân khoản tài trợ cho những công trình nghiên cứu khoa học. Chính quyền của ông Trump buộc chính phủ phải đứng ngoài các công trình nghiên cứu khoa học. Chính quyền của ông ngưng hoàn toàn mọi giao tiếp, thông tri với các cơ quan y tế, xóa sạch mọi websites của những cơ quan y tế, sa thải hàng trăm khoa học gia làm việc trong chính phủ, và đề nghị cắt giảm hai phần ba ngân sách của National Science Foundation- Tổ chức Nghiên Cứu Khoa Học Quốc gia. Chính quyền ông Trump cũng tuyên bố rằng từ nay Viện Nghiên Cứu Y Tế- N.I.H sẽ không được phép chi trả cho “những chi phí gián tiếp” (indirect cost) của những khoản tài trợ mà viện Nghiên Cứu Y Tế từng cấp ngân khoản. Thông thường đó là những khoản tiền để trả cho phí thuê địa điểm dùng làm phòng thí nghiệm, dụng cụ dùng để nghiên cứu, và chi phí dọn dẹp những chất phế thải  nguy hiểm, cũng như chi phí trả cho nhân viên trợ giúp người tình nguyện đi làm thử nghiệm. Theo bác sĩ Charles Roberts, người đứng đầu chương trình nghiên cứu bệnh ung thư của trẻ em tại bệnh viện St. Jude, sự cắt giảm ngân khoản của chính quyền ông Trump có nghĩa là “sẽ có rất nhiều trẻ em chết vì ung thư.”.

Một chánh án liên bang đã ra lệnh ngăn chặn quyết định này của chính quyền ông Trump. Nhưng nhiều khoa học gia cho rằng Viện Nghiên Cứu Y Tế Quốc Gia – N.I.H sẽ gặp nhiều khó khăn trong một số lĩnh vực khác lớn hơn, vì họ phải chấm dứt không được cấp ngân khoản tài trợ cho các công trình nghiên cứu mới. Chỉ vài tuần lễ sau khi làm Tổng thống, ông Trump đã ngưng không cho tháo khoán hàng tỷ đô la cho việc nghiên cứu, mà lẽ ra trong năm trước, chính phủ thường làm.  Để cãi lại lệnh của tòa án, chính quyền tìm cách lắt léo, sử dụng các thủ tục trì hoãn việc họp để đóng băng, không cấp ngân khoản tài trợ cho các công trình nghiên cứu đã từng được chấp thuận trước đây. Do đó, từ nay sẽ không còn có việc nghiên cứu để tìm ra thuốc chữa bệnh Alzheimer’s, chữa những bệnh nghiện ngập, bệnh tim, và nhiều loại bệnh khác. (Có một số phiên họp duyệt xét dự án nghiên cứu được tái tục, nhưng đa số đều bị trì hoãn, nhất là những dự án đang ở giai đoạn sắp kết thúc.).

Sự gián đoạn đã bắt đầu thẩm thấu sang lĩnh vực nghiên cứu ở trường đại học. Nhiều trường y khoa phải ngưng không tuyển dụng nhân viên phòng thí nghiệm. Có nơi còn phải sa thải nhân viên, nhiều trường phải cắt bớt chương trình cung cấp học vị Tiến Sĩ – Ph.D. Có một vài nơi phải trả lại hồ sơ cho sinh viên xin thực hiện chương trình lấy Tiến Sĩ. Trong khi đó, các nhà đầu tư trong ngành sinh vật cảnh báo rằng việc phát minh ra loại thuốc mới sẽ gặp nhiều khó khăn. Họ viết: “Phát minh ra thuốc cần phải có sự tiếp tay, trợ giúp của chính phủ để làm những việc cơ bản trong khoa học.”. Một người đối tác trong ngành đầu tư này nói rằng: “Không có ai có thể thay thế chính phủ được trong việc tài trợ cho các công trình nghiên cứu. Chúng tôi đồng ý nên có sự cải tổ để tránh những trường phí phạm vì trùng lấp. Chính Viện Nghiên Cứu Y Tế cũng cần được cải tổ để đạt hiệu quả, có sự minh bạch trong việc tính toán chi phí. Nhưng những việc mà chính quyền ông Trump đang làm hiện nay không phải là cải tổ, mà là sự lật đổ hoàn toàn việc làm của Viện Nghiên Cứu. Hơn nữa nó lại xảy ra ở một thời điểm hết sức nguy kịch, và sẽ gây tổn hại vô cùng lớn lao cho Viện Nghiên Cứu Y Tế Quốc Gia. 

Từ bấy lâu nay, nước Mỹ vẫn là tiền đồn của thế giới trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, khi đo lường theo nhiều tiêu chuẩn khác, Trung Quốc bây giờ đang trỗi dậy để trở thành quốc gia qua mặt được Mỹ trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Trong vài năm gần đây, Trung Quốc vượt qua Hoa Kỳ về những công trình nghiên cứu được đánh giá là có giá trị cao, và có những ứng dụng tốt trên toàn thế giới. Trung Quốc hiện nay có nhiều ứng viên làm dự án Tiến Sĩ về khoa học và công nghiệp hơn cả Hoa Kỳ. Ngay cả khi chưa có những rắc rối do ông Trump gây ra, Trung Quốc từng lập ra kế hoạch vào cuối thập niên này, họ sẽ cung cấp tất cả chi phí cho những công trình nghiên cứu khoa học. Ông Trump từng lớn tiếng rêu rao khẩu hiệu: “America First” “Nước Mỹ trước nhất”, song lối thực hiện chính sách của ông sẽ khiến cho nước Mỹ may lắm cũng chỉ đứng hàng thứ hai mà thôi. 

Nếu ngày nay chúng ta đạt được những thành tích lịch sử trong việc chữa trị những bệnh chết người, chẳng hạn như bệnh do virus HIV gây ra, bệnh về tim mạch, và bệnh ung thư máu, tất cả là nhờ có những cuộc đầu vô cùng lớn lao trong lịch sử dành cho cho các công trình nghiên cứu. Nếu không có những số tiền đầu tư lớn như vậy, có lẽ cho đến nay vẫn còn có nhiều người phải chết, với tỷ lệ không lường được do các chứng bệnh kể trên. Việc cắt giảm nguồn vốn đầu tư cho khoa học của chính phủ Mỹ có nghĩa là từ nay sẽ còn có rất nhiều người phải chết vì những chứng bệnh chúng ta chưa có cách chữa trị, như bệnh Parkinson’s, bệnh ung thư tụy tạng, bệnh lú lẫn và nhiều bệnh khác nữa. Kinh tế gia Alex Tabarrok miêu tả những người phải chết vì những căn bệnh chưa tìm ra được thuốc chữa là những người “bị chôn vùi trong những nấm mộ vô hình.”. Khi chúng ta dùng một loại thuốc mới, chúng ta dễ bị những hậu quả phụ của nó, và cảm nhận ngay được phản ứng này, nó khó chịu vô cùng. Tương tự như vậy, chúng ta cảm thấy tức tối, và chán nản tuyệt vọng khi thấy mình bị bệnh mà không tìm được thuốc chữa trị. 

Hành động của chính quyền Trump hiện nay cũng còn có nghĩa là những người đang được chữa trị bằng loại thuốc mới sẽ không còn được tiếp tục chữa trị nữa, và sớm muộn gì thì họ cũng sẽ bị chôn vùi trong các nấm mồ cụ thể rõ ràng. Chính quyền ông Trump cũng phá bỏ hoàn toàn chương trình chữa bệnh khẩn cấp cho những người bị bệnh AIDS, tên của chương trình này là The President’s Emergency Plan for AIDS Relief, còn được gọi bằng tên tắt của nó là PEPFAR, cứu được nhiều sinh mạng, nổi tiếng khắp thế giới. Giữa lúc bệnh cúm đang hoành hành, cơ quan FDA ra lệnh hủy bỏ những cuộc họp của những chuyên gia thảo luận về việc làm cách nào để cập nhật loại thuốc chủng ngừa sẽ dùng trong mùa thu sắp tới. Trong lúc bệnh cúm gia cầm, hay cúm gà đang bộc phát, mầm bệnh đang lây lan khá mạnh ở nhiều nông trại, đe dọa sẽ lây sang con người, chúng ta thấy nước Mỹ đang đối phó với bệnh cúm gia cầm một cách thiếu sót, đáng chê trách. 

Trong lúc đó việc chủng ngừa cho trẻ em tiếp tục suy giảm trong khi bệnh sởi lại vừa mới bùng phát lan rộng trên chín tiểu bang. Đã có hai người chết vì bệnh sởi: Một em bé ở Texas, và một người đàn ông ở New Mexico. Điều này nhắc nhở cho chúng ta biết đây là ca tử vong vì bệnh sởi hiếm hoi xảy ra từ hơn mười năm nay. Nó cũng nhắc nhở cho chúng ta biết người đứng đầu ngành y tế trong chính quyền hiện nay là Robert Kennedy Jr, một nhân vật có quan niệm hoài nghi về việc dùng thuốc chủng, cũng như hiện nay vẫn còn nhiều phụ huynh ngần ngại, hay trễ nải trong việc đưa con em đi chủng ngừa. Ông Kennedy này còn cổ vũ cho việc dùng dầu cá lấy từ gan con cá cod để ngừa bệnh. 

Ngày xưa, ông khoa trưởng Vannevar Bush từng nói rằng: “Khoa học tự nó không cung cấp cho chúng ta loại thuốc để chữa bách bệnh. Nó chỉ đạt được kết quả hữu hiệu cho sự an sinh của quốc gia khi chúng ta cùng nhau làm việc chung trong tinh thần đồng đội. Nhưng tiếc nay, ngày nay chính quyền của ông Trump lại tỏ ra không muốn tham gia vào công tác này.”

Nguyễn Minh Tâm  dịch theo THE NEW YORKER  ngày 17/3/2025

50 NĂM SAU NHÌN LẠI HUẾ

HUẾ 26 THÁNG 3

Lịch sử chép – ngày nầy – 26 tháng 3:

Trên xứ Huế dân mình nhìn mặt dân ta,

Như hai kẻ vừa quen vừa lạ,

Quê hương ơi xao xuyến tấc lòng.

Ngoảnh mặt nhìn từ Bắc vô Nam;

Ngoái trông nhau từ Nam ra Bắc:

Có kẻ buồn, người vui; nỗi lòng còn mất,

Có bước chân về bén gót bước chân đi.

Tháng Tư: dân tản cư trở về,

Băng đèo Hải Vân dắt dìu nhau ra Huế,

Thành phố tản cư đìu hiu vắng vẻ,

Không có người nắng vẫn đỏ vàng hoe.

Đời mới bắt đầu khăn gói về quê:

Vườn ruộng ê chề quay lên phố chợ,

Sống giữa bạn bè đứa hăng, đứa sợ,

Đứa theo bộ đội miền Bắc, đứa đi lính miền Nam.

Đứa lon ton làm cách mạng 75,

Đứa trình diện tập trung cải tạo.

Dậy mà đi chưa thành cơm áo…

Ai nên khôn không khốn mấy lần.

Nghệ sĩ, văn nhân thế thời phải thế,

Trịnh Công Sơn gảy đàn hát kể:

“Gánh, gánh, gánh… gánh rau ra chợ,

Hôm nay đây thống nhất đã về!”

Miên Đức Thắng hát… cho dân ta nghe,

Gặp Trần Hoàn chì chiết khen chê:

“Giải phóng đưa ta lên tầm cao vũ trụ,

Sao gánh rau ra chợ kéo xe hề?!”

Nắng tháng ba mà Huế lạnh tanh,

Bửu Chỉ vẽ phông treo trước Mô Ranh,

Hình công nông lên đường sản xuất;

Lãnh đạo lắc đầu chê tranh chưa đạt:

“Nhà máy công trường sao ống khói không phun?!”

Đành trở về vẽ “Ngựa Đá Sang Sông”,

Dấu đá rạn điểm thêm dòng chia biệt!

Nguyễn Đính Trần Vàng Sao cười khan cay nghiệt:

Chưởi toáng… cuộc đời quá vô hậu,

Chung cuộc canh tàn vẽ thánh lang thang.

Thằng bạn dãi dầu thi sĩ Thái Ngọc San:

Nói bất chấp quá lề tê vị đắng!

Thầy thời Trung học Hoàng Phủ Ngọc Tường,

Về lại Huế xưa như người hái phù dung;

Mơ một thuở tên đường không ai đặt,

Quốc Học bơ phờ Đồng Khánh pha sương,

Thầy thuở Văn khoa: Tiến sĩ Giáo sư Lê Văn Hảo,

Từ núi về thành đường phượng bay mờ ảo,

Ôn Thiên Mụ mái chùa xưa nẻo đạo,

Tiếng kinh khuya thấm đẫm ba đào.

Trải nghiệm đầu đời hăm sáu tháng ba.

Đời lưu ly giấc ngủ yên hà,

Ra trận vào bưng những chàng trai xứ Huế:

Yêu nước, yêu quê lãng mạn rứa răng… “tề!”

Sông núi đó bỗng nhiên buồn vô kể,

Khát vọng, ước mơ, chung dòng thế hệ:

Những hư danh, ảo tưởng buổi giao thời,

Đường nhân văn tìm lại bóng con người?

Ngày du thủ trải vàng ra ái ngại,

Đêm tâm kinh nghe mãi chiếc loa rè,

Đốt nhiệt tình tuổi trẻ đam mê.

Dòng lịch sử mô tê đành hoang tưởng.

Những bi phẫn lạnh lùng treo cuộc sống,

Những bon chen, nông nổi gối lên nhau.

Không biết mai tê bầy đàn con cháu,

Vết cắt lòng thành sẹo có còn đau?

Mà thương về thế hệ mai sau,

Ai đi qua, ai ở lại bên cầu,

Trên Quê Mẹ chớ một đời đất khách;

Đá vàng phai sông núi bạc màu.

Tuổi trẻ lên đường em ở nơi đâu,

Mưa gió tháng Ba khi nào mới tạnh?!

Trần Kiêm Đoàn

ảnh minh họa

Bài thơ cột vào đời như một số phận.

Bài thơ đầy tâm sự trăn trở tôi làm trong thời gian dạy học, phụ trách Đoàn Trường, tham gia Ban Giám Hiệu tại hai trường Nguyễn Tri Phương và Đồng Khánh Huế trong suốt hai niên khóa từ 1975 đến 1977. Bài thơ là nguyên nhân khiến tôi bị cho nghỉ dạy khi đang còn là phó hiệu trưởng của trường Đồng Khánh. Sau 50 năm nhìn lại ở tuổi 80, vẫn còn miên man dư cảm xót xa của một thời tuổi trẻ, tôi lại mỉm cười khi hồi tưởng lại cái “vụ án văn chương” tuy nhỏ như tô cơm hến Cồn; nhưng tôi vẫn thấy thương mình, thương người và thương Huế của một thời, bây giờ và có lẽ là mãi mãi.

Sau mùa Hè đỏ lửa 1972, là một thầy giáo trường trung học Nguyễn Hoàng Quảng Trị, tôi cùng đồng nghiệp, học trò và bà con Quảng Trị đành phải rời một Quảng Trị, Đông Hà, Gio Linh, Cam Lộ… điêu tàn và khói lửa đằng sau để chạy vào Đà Nẵng tỵ nạn chiến tranh.

Ngày 26 tháng 3 năm 1975, tin Huế đã “hoàn toàn giải phóng”, mấy hôm sau chúng tôi khăn gói trở về Huế. Cả thành phố Huế từ nội thành đến tả và hữu ngạn sông Hương cũng như vùng phụ cận đều vắng hoe. Trên đường đây đó, có những nhóm hay đội quân di chuyển trong im lặng quanh thành phố. Tôi về làng Liễu Cốc Hạ, quận Hương Trà… tất cả vẫn còn nguyên vẹn. Dân làng, người dè dặt ở trong nhà, kẻ tham gia các sinh hoạt xã hội, văn nghệ, họp hành khá sôi nổi trong những ngày đầu mới mẻ nhắc tôi nhớ lại thời “tập kết” 1954; chỉ khác nhau là làng xóm, dòng sông và cảm nhận từ đứa bé quê đến chàng trung niên mới đó.

Tình hình sinh hoạt của thành phố Huế nhanh chóng trở nên rộn ràng khi lượng người từ Nam ra, Bắc vào, rừng núi xuống, sông biển lên… Tôi biết từ lâu trong im lặng thâm cung của Huế nhưng đôi khi vẫn ngỡ ngàng vì sự xuất hiện bất ngờ của lớp người lạ mà quen; quen mà lạ. Cái quen và lạ đâu phải do hình tướng mà do những điều chưa tri ngộ trong thế giới tâm hồn. Giữa buổi giao thời, anh chị em nhìn rõ mặt nhau thật khó. Giữa hai khuynh hướng cực đoan: Giữ miệng như bình, giữ ý như thành và huyên thuyên khẩu nghiệp thì sự dè dặt “thi hành trung đạo, báo cáo trung dung…” là tấm áo giáp an toàn hơn cả. Tôi được bạn bè tốt bụng, những anh chị đã có chân đứng vào hàng ngũ cơ sở cách mạng, giúp xin ở lại Huế dạy học, thay vì phải về lại trường Nguyễn Hoàng Quảng Trị, với điều kiện tiên quyết là phải vào đoàn Thanh Niên (vì tôi mới 27 tuổi, theo hồ sơ sinh năm 1948) và tham gia Ban Giám Hiệu, phụ trách Đoàn Trường.

Với tình trạng gia đình vợ và 4 con dại, cùng lúc tôi vừa cần phải lao vào công việc ở trường học; vừa phải có trách nhiệm với gia đình riêng. Khi một người đồng thời phải dấn thân vào hai đối cực công việc thì hệ quả không tránh khỏi là rất dễ bị tha hóa: mình bỗng nhiên trở thành một người khác với bản chất không phải là chính mình. Tôi bị rơi vào một trạng thái tâm lý phức tạp “phản kháng thụ động” (passive resistance) – một loại hình tâm lý “tiểu tư sản trí thức” phổ biến và bị phê phán gay gắt…  đương thời – trước hoàn cảnh khó khăn, tình người bất trắc, phương hướng tiến thủ mịt mù.

Thế nhưng trải qua hơn hai năm còn ở trường học, tự mình vẫn đứng vững giữa sân trường Nguyễn Tri Phương và Đồng Khánh, hoặc ở trong các đợt học tập và thảo luận chính trị tại chức, tôi đã hành xử với nhiệt tình và biểu hiện đầy trung thực trước học sinh và đồng nghiệp; nhưng sau gần ba năm cũng bị chao đảo khi phải đối diện đồng thời với thực tế trường học công cộng màu hồng và hoàn cảnh riêng tư cơm áo màu xám của chính mình.

Khi tâm lý riêng và hoàn cảnh chung ở giữa hai bến bờ đối đãi thì sự “yên thân đối trọng” sẽ khó tồn tại trong hiện thực mà chỉ hiện thân trong cõi mơ mòng của nghệ thuật và thi ca.  Tôi đã làm thơ và viết cho chính mình để tự đứng dậy trong một hoàn cảnh…ai có qua cầu mới hay! 

Bởi thế, trong số những bài thơ, bài viết của một kẻ xuất thân thầy giáo, cầm bút như cầm phấn trên bục giảng trong 50 năm qua thì bài thơ “Huế 26 tháng 3…” bây giờ đọc lại tôi vẫn còn cảm thấy sự chân thành một thuở đến rưng rưng. Bài thơ như một ngấn lệ nhưng có hết niềm tâm cảm của một tấm lòng chân thật giữa buổi giao thời.

Huế ơi! Từ 26 tháng 3…

Sau 43 năm xa Huế, tôi đã về lại với quê hương “núm ruột” của mình nhiều lần. Lần đầu (1992) sau 10 năm xa Huế, tôi được Đoàn Phạm Túy Linh cho bản viết tay nhòe mực bài thơ “Huế 26 tháng 3…” của mình mà bạn hiền còn giữ. Đọc thơ và nhìn cảnh đâu đó quanh mình, tôi thấy Huế vẫn ngủ cơn đò dọc: Nước trôi thì thuyền trôi chứ chẳng có gì đổi khác.

Sau đó, cứ vài ba năm tôi về lại một lần.

Huế đã qua tuổi… “dậy thì cách mạng”.

Cả con người và sông núi bớt dần những ảo tưởng viễn mơ để bước đi cùng hiện thực. Huế từng bước vươn lên cùng nỗi khó khăn chung cả nước. Một thời “cái khó BÓ cái khôn” từ từ nhường bước cho “cái khó LÓ cái khôn.” Người dân quê mỗi làng có một sắc thái khác nhau về cái khôn ló dạng, nhưng bản năng sinh tồn tự nhiên được phát huy trong một hoàn cảnh thuận lợi hai chiều: Người và ta!

Sau 20 năm xa Huế, tôi về lại Làng trong dịp Tết và cảm thấy vui đến ngỡ ngàng khi thấy hơn một nửa Làng đổi mái nhà tranh sang lợp ngói. Được biết dân làng làm ruộng tốn ít công chăm sóc việc đồng áng hơn nhờ máy móc trợ lực nên có được thì giờ đi khắp từ Nam ra Bắc thu nhặt và mua bán phế liệu như một nghề kiếm ra tiền khiêm tốn tự phát mà không lo ảnh hưởng thời tiết mất mùa! Và một khi nguồn kinh tế được cải thiện thì đời sống phương tiện vật chất được cải thiện đã đành nhưng số con em vào đại học cũng tăng theo. Các làng khác cũng chung nhịp với bằng cách nầy hay thế nọ không để tự mình tụt lại đằng sau.  

Cứ mỗi lần sau về thăm, đời sống bà con ở làng cùng với đời sống Huế có nhà cửa tươm tất hơn, áo quần lành lặn hơn và miếng ăn có thêm chút rau, chút cá, chút thịt thường xuyên hơn lần trước. Trải nghiệm thực tế đã huấn luyện tôi thành một kẻ “duy thật”, nghĩa là biết thật, làm thật, có thật mới tin. Tâm lý “duy thật” rất gần với lời Phật Như Lai: “Tin ta mà không hiểu ta và thiếu kiểm chứng thực tế là đồng nghĩa với phỉ báng ta.”

Lần tôi về lâu nhất vào năm 2013, ở luôn ba tháng với Huế và Làng. Giao Thừa năm đó, đứng trước hiên nhà bên cạnh sông Bồ, tôi điểm lại những niềm mơ ước trong suốt cả một thời tuổi trẻ. “Tứ Đại Cầu”… bốn điều ước mơ lớn nhất cho làng quê tôi là:

–         Ước chi có điện thay cho đèn dầu.

–         Ước chi có nước máy để khỏi oằn vai ra sông Bồ gánh nước.

–         Ước chi có đồ nấu để khỏi tối mắt vùi khói rơm rạ và khỏi oằn vai đi mót củi nấu ăn.

–         Ước chi có con đường tử tế từ làng qua Huế để khỏi lội bùn quá “trốt cúi” (đầu gối).

Và có thêm một ước mơ ngỡ như hoang tưởng là có điện thoại đứng ở Làng mà gọi người cách xa năm đồng bảy đội quanh mình hay “ghê gớm” hơn nữa là gọi khắp năm châu…

Tất cả bốn điều ước “tứ đại cầu” thời 50 năm trước thì tất cả bây giờ đã có ở quê tôi và kể cả điều ước “ghê gớm” cũng chỉ còn là nhấn nút. Chiều nay, giờ đi ngủ ở Làng là giờ thức giấc ở Cali, tôi gọi Lê ở Sacramento và nghe nàng nói là “nghe rõ như nhà dưới nói với nhà trên”. Với kỹ thuật số thời đương đại thì “tứ đại cầu hay nhất ghê gớm” nơi nào mà chẳng có. Nhưng trên những nẻo đường du lịch ở nhiều vùng đất thế giới vẫn còn biết bao đất nước và vùng đất vẫn còn xa ngoài tầm… ước chi mà tôi đã đi qua và trải nghiệm thực tế.

Những chuyến về thăm Huế năm lần bảy lượt, tôi có những tâm sự xao xác nổi lên như thách thức là:

 “Huế sẽ có còn là Huế nữa hay không?!” giữa cuồng lưu đổi đời cho kỹ nghệ kiến trúc tầm Dubai (sa mạc biến thành cảnh quan lâu đài sông nước tráng lệ) hay tầm Do Thái (đồi cát biến thành đồng xanh). Trước nhu cầu hiện đại hóa du lịch thì liệu dân Huế và giới lãnh đạo Huế có đủ căn cơ tầm nhìn và bản lĩnh đổi mới để đừng “phương tiện hóa” Huế thành “một nơi nào khác” như những thành phố phía Bắc và phía Nam của Huế chăng?

Cứ mỗi lần về Việt Nam, loanh quanh từ Nam chí Bắc, tôi đã đi lạc ngay giữa những “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”; đã chứng kiến những thành phố “đổi đời” táo bạo đến nỗi đã xóa đi hoàn toàn dấu cũ. Nhưng đã 50 năm qua, cứ mỗi lượt năm ba năm trở về thăm Huế, tôi thật vui mừng và xúc động khi thấy Huế vươn lên ngang tầm ngọn trào của toàn đất nước mà “Huế vẫn là Huế”. Huế thay da đổi thịt với hình ảnh kiến trúc đô thị như cao ốc, chung cư, siêu thị, nhà cao cấp… ở vùng Nam sông Hương nhưng cốt cách của Huế vẫn còn đẹp dịu dàng và khiêm cẩn như xưa. Dòng sông, dáng núi, bến cũ, hoàng thành, lăng tẩm, miếu mạo, lối xưa vẫn còn dáng thướt tha và vẻ trầm mặc uy nghi như một đời muôn thuở trước.

Ở tuổi 80, đã 50 năm từ ngày Huế “nối nhịp Trường Tiền”, tôi nghĩ đến nửa đời trên quê hương và nửa đời đất khách. Có lẽ phải đồng ý với Erick Erickson, nhà tâm lý học cổ điển hàng đầu của Mỹ từ thế kỷ trước khi diễn thuyết, nói đại khái rằng: Lai lịch một đời của mỗi con người được hình thành và ổn định trong lứa tuổi từ 7, 8 đến 10, 13. Bạn là ai trong lứa tuổi đó thì lai lịch cốt tủy của bạn chính là nơi đó; đã hình thành cố định rồi, suốt đời sau không còn thay đổi.

Mượn chút suy tư của gã học giả tâm lý nầy, tôi nhìn về Huế từ California, bèn sửa (hay làm tiếp) hai câu thơ cuối của bài thơ đã làm đời tôi phong trần, lãng đãng…

(1975)

Tuổi trẻ lên đường em ở nơi đâu,

Mưa gió tháng Ba khi nào mới tạnh?!

(2025)

Tuổi trẻ ngày xưa bây giờ lên lão,

Mưa gió tháng Ba tạnh ráo lâu rồi!

California 18-3-2025

    Trần Kiêm Đoàn

Người phụ nữ bị cáo buộc sát hại vợ – một đội trưởng cứu hỏa ở California – bị bắt tại Mexico

SAN DIEGO — Một người phụ nữ bị tình nghi dùng dao sát hại vợ mình – đội trưởng cứu hỏa tại Nam California đã bị bắt tại Mexico sau hơn một tháng lẩn trốn, các quan chức Mexico thông báo hôm thứ Bảy.

Yolanda Marodi bị bắt giữ tại một khách sạn cách biên giới Mỹ khoảng 3,7 km, ở thành phố Mexicali, theo tuyên bố từ Ban Thư ký An ninh Công dân Baja California (SSCBC).

SSCBC cho biết Marodi đã được chuyển đến biên giới với sự hỗ trợ của Viện Di trú Quốc gia Mexico. Sau đó, bà ta được bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ (U.S. Marshals Service) tại một cửa khẩu biên giới Mỹ, theo Sở Cảnh sát Quận San Diego.

Marodi bị truy nã vì bị cáo buộc sát hại Rebecca “Becky” Marodi, 49 tuổi, một đội trưởng cứu hỏa đáng kính ở California, vào ngày 17/2 tại nhà riêng của họ ở Quận San Diego.

Ban Thư ký An ninh Công dân cho biết việc phối hợp và trao đổi thông tin với chính quyền Mỹ đã giúp dẫn đến vụ bắt giữ này.

Video giám sát hé lộ khoảnh khắc kinh hoàng

Theo bản khai hỗ trợ lệnh bắt giữ Yolanda Marodi, video giám sát tại nhà cho thấy cảnh tượng kinh hoàng bên ngoài căn nhà của cặp đôi ở Ramona vào đêm 17/2.

Đoạn ghi hình cho thấy Rebecca Marodi, dính đầy máu, chạy trên sân và cầu xin: “Yolanda! Làm ơn…! Tôi không muốn chết.”

Yolanda Marodi đáp lại: “Lẽ ra cô nên nghĩ đến điều đó trước rồi chứ.”

“Mẹ của Rebecca Marodi, người sống cùng Rebecca và Yolanda, đã gọi cảnh sát báo rằng con gái mình bị đâm, theo tài liệu điều tra.”

Chỉ ít lâu sau, camera an ninh ghi lại cảnh Yolanda Marodi, trong bộ quần áo khác, thu dọn đồ đạc, hành lý và thú cưng, rồi rời khỏi nhà bằng chiếc SUV Chevrolet Equinox màu bạc.

Cùng đêm đó, chiếc SUV này đã vượt biên vào Mexico, cách Ramona khoảng 72 km về phía nam, theo hồ sơ của Bộ An ninh Nội địa Mỹ.

Tiền án giết người và động cơ vụ án

Ngày 21/2, Yolanda Marodi bị truy tố tội giết người.

Cuộc truy tìm bà ta có sự tham gia của Sở Cảnh sát Quận San Diego và Đội Truy nã Tội phạm thuộc Cơ quan Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ. Các nhà chức trách ở Baja California cũng phối hợp truy tìm theo yêu cầu của Mỹ.

Theo NBC San Diego, Marodi từng bị kết tội giết người không chủ ý vào năm 2003 vì đâm chết chồng mình, Jim Olejniczak, vào năm 2000. Bà ta được trả tự do sau một thập kỷ ngồi tù.

Tài liệu điều tra cũng cho thấy một nhân chứng đã nhận được tin nhắn từ Yolanda Marodi một ngày sau vụ sát hại Rebecca Marodi, trong đó viết:

“Rebecca Marodi về nhà và nói với tôi rằng cô ấy sẽ rời đi vì đã gặp người khác. Tất cả những tin nhắn trước đây chỉ là lời nói dối. Chúng tôi đã cãi vã kịch liệt, và tôi đã làm tổn thương cô ấy… Tôi xin lỗi.”

Nỗi mất mát lớn của cộng đồng cứu hỏa

Các nhân viên cứu hộ đến hiện trường phát hiện Rebecca Marodi bị nhiều vết đâm, bao gồm cả vết cắt sâu ở cổ, ngực và bụng. Bà được xác nhận tử vong tại chỗ.

Theo tuyên bố chung từ Sở Cứu hỏa và Phòng cháy rừng California (Cal Fire) và Sở Cứu hỏa Quận Riverside, Rebecca Marodi đã có hơn 30 năm cống hiến cho ngành cứu hỏa. Bà bắt đầu làm tình nguyện viên ở Moreno Valley, sau đó trở thành lính cứu hỏa chính thức, rồi được thăng cấp lên kỹ sư vào năm 2007 và đội trưởng vào năm 2022.

“Chúng tôi cảm ơn các cơ quan thực thi pháp luật ở San Diego và Mexico vì nỗ lực truy bắt nghi phạm,” phát ngôn viên Maggie Cline De La Rosa của Cal Fire/Riverside County Fire Department cho biết. “Becky là một thành viên đáng kính của cộng đồng và đội ngũ của chúng tôi, và chúng tôi vô cùng thương tiếc sự ra đi của cô ấy.”

Rebecca Marodi đã dành phần lớn sự nghiệp của mình để hỗ trợ tinh thần cho đồng nghiệp, luôn đặt phúc lợi của họ lên hàng đầu.

Một bài đăng trên Instagram của đơn vị Cal Fire ở Temecula cho thấy hình ảnh bà đang chiến đấu trên tuyến đầu của trận cháy rừng Eaton ở Altadena – đám cháy chết chóc nhất trong loạt vụ cháy rừng do bão gió tại California hồi tháng 1.

Một chiến dịch gây quỹ trực tuyến của Quỹ Từ thiện Cal Fire San Diego đã mô tả Rebecca Marodi là một người phụ nữ “đã cống hiến hơn ba thập kỷ để bảo vệ cộng đồng bằng lòng dũng cảm, khả năng lãnh đạo và tinh thần tận tụy không lay chuyển.”

Nguồn nbc news

Cựu công tố viên liên bang Jessica Aber, 43 tuổi, được phát hiện tử vong tại nhà riêng ở Virginia

Một cựu công tố viên liên bang Hoa Kỳ được phát hiện tử vong tại Virginia vào sáng thứ Bảy, chỉ hai tháng sau khi rời nhiệm sở.

Jessica D. Aber, 43 tuổi, từng giữ chức vụ công tố viên liên bang quận Đông Virginia từ năm 2021 đến 2025. Được bổ nhiệm bởi cựu Tổng thống Joe Biden, bà đảm nhiệm vị trí này cho đến khi từ chức vào ngày 20 tháng 1.

Trong một thông cáo báo chí hôm thứ Bảy, Sở Cảnh sát Alexandria (APD) xác nhận Aber đã qua đời, cho biết họ nhận được cuộc gọi vào khoảng 9:18 sáng cùng ngày về một “người phụ nữ trong tình trạng bất tỉnh.”

“Theo quy trình, cơ quan chức năng đang điều tra để làm rõ các tình huống liên quan đến cái chết của bà,” APD cho biết trong tuyên bố. “Văn phòng Giám định Y khoa trưởng bang Virginia sẽ xác định nguyên nhân và phương thức tử vong.”

Theo tiểu sử của Aber theo trang web Bộ Tư pháp Hoa Kỳ. Bà tốt nghiệp Trường Luật William & Mary năm 2006 và từng lãnh đạo khoảng 300 công tố viên, luật sư dân sự cùng nhân viên hỗ trợ tại bốn văn phòng ở Alexandria, Richmond, Norfolk và Newport News.

Trong tuyên bố từ chức, Aber cho biết việc đảm nhận vai trò công tố viên liên bang là “một vinh dự không gì sánh được.”

“Tôi vô cùng biết ơn các thượng nghị sĩ Mark Warner và Tim Kaine, cũng như Tổng thống Biden vì đã trao cho tôi cơ hội lãnh đạo văn phòng này, và cảm ơn Tổng Chưởng lý Garland vì sự lãnh đạo kiên định của ông,” Aber chia sẻ vào thời điểm đó. “Tôi tự hào về những gì chúng tôi đã làm được cùng các đối tác thực thi pháp luật ở cấp liên bang, bang và địa phương nhằm thực thi pháp luật và xây dựng lòng tin trong cộng đồng.”

Công tố viên liên bang Erik S. Siebert, người kế nhiệm Aber, bày tỏ sự đau buồn sâu sắc khi nghe tin bà qua đời vào thứ Bảy.

Jessica D. Aber, 43 tuổi, được phát hiện đã chết vào ngày 22 tháng 3. (Lưu trữ Bộ Tư pháp Hoa Kỳ)

“Cô ấy là một nhà lãnh đạo, người cố vấn và công tố viên xuất sắc, và là một con người không thể thay thế,” Siebert nói. “Chúng tôi vẫn luôn ngưỡng mộ những gì cô ấy đã đạt được trong quãng đời quá ngắn ngủi của mình. Sự chuyên nghiệp, duyên dáng và tài năng pháp lý của cô ấy đã đặt ra một tiêu chuẩn cao.”

Ông nhấn mạnh rằng “mỗi người trong chúng tôi tại Quận Đông Virginia sẽ noi theo tấm gương của cô ấy và nỗ lực để xứng đáng với tiêu chuẩn đó.”

“Jess là một người con đầy tự hào của Virginia, từ thời trung học, đại học đến suốt sự nghiệp của mình,” Siebert nói thêm. “Cô ấy yêu EDVA (Quận Đông Virginia), và EDVA cũng yêu cô ấy. Chúng tôi sẽ tiếp tục cam kết với công việc mà cô ấy đã cống hiến cả đời – theo đuổi công lý – đúng như cô ấy mong muốn.”

Chính quyền đang điều tra cái chết của Aber. 

Nguồn fox news