Thủ Tướng chỉ đạo sớm hoàn thiện Bệnh viện Ung bướu Cần Thơ
Ngày 14 tháng Bảy năm 2025, trong khuôn khổ chuyến công tác tại Cần Thơ, Thủ Tướng cộng sản Việt Nam Phạm Minh Chính đã trực tiếp khảo sát tiến độ dự án Bệnh viện Ung bướu Cần Thơ và có buổi làm việc với lãnh đạo thành phố cùng các bộ, ngành liên quan. Tại đây, ông Chính nhấn mạnh yêu cầu sớm hoàn thiện, đưa bệnh viện vào vận hành chính thức nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng cấp thiết cho người dân khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Theo báo cáo từ Ban Quản lý dự án, Bệnh viện Ung bướu Cần Thơ là dự án trọng điểm của ngành y tế vùng Đồng bằng sông Cửu Long, với quy mô 500 giường bệnh, tổng mức đầu tư gần 1.800 tỷ đồng. Công trình khởi công từ năm 2020, dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2024, tuy nhiên hiện tiến độ còn chậm khoảng 6 tháng so với kế hoạch do vướng mắc liên quan đến thủ tục giải ngân vốn, mua sắm thiết bị y tế, và nhân sự vận hành.
Trong buổi làm việc, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá cao nỗ lực của thành phố Cần Thơ, các đơn vị liên quan trong việc triển khai dự án, song cũng thẳng thắn chỉ rõ các tồn tại, đặc biệt là sự chậm trễ không đáng có trong hoàn thiện các hạng mục kỹ thuật và đấu thầu thiết bị. Ông yêu cầu ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ phối hợp chặt chẽ với Bộ Y tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính tháo gỡ ngay các nút thắt về cơ chế, thủ tục, đồng thời tăng cường giám sát, tránh tình trạng đội vốn, chậm tiến độ kéo dài ảnh hưởng đến quyền lợi người dân.
Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay vẫn là vùng trũng về y tế chuyên sâu, đặc biệt là trong lĩnh vực điều trị ung bướu. Người dân các tỉnh như Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau vẫn phải chuyển tuyến lên Sài Gòn rất vất vả, tốn kém chi phí, chưa kể ảnh hưởng đến sức khỏe và tâm lý bệnh nhân.
Ông Chính yêu cầu các đơn vị liên quan đẩy nhanh tiến độ, mục tiêu chậm nhất đến quý I năm 2026 phải đưa bệnh viện vào hoạt động chính thức, không để tình trạng bệnh viện xây xong lại chậm vận hành do thiếu thiết bị, thiếu nhân lực. Đồng thời, Thủ tướng cũng chỉ đạo Bộ Y tế lập ngay đề án hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho bệnh viện Ung bướu Cần Thơ, ưu tiên bác sĩ chuyên khoa II, kỹ thuật viên chuyên sâu về xạ trị, hóa trị, phẫu thuật ung thư.
Bên cạnh đó, ông Chính cũng nhắc lại yêu cầu chung đối với ngành y tế cả nước, đặc biệt là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long: tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong khám chữa bệnh, quản lý bệnh viện. Việc này sẽ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế công.
Kết thúc buổi làm việc, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu Bộ Y tế, ủy ban nhân dân TP Cần Thơ báo cáo tiến độ thực hiện dự án định kỳ hàng tháng, công khai minh bạch để nhân dân và báo chí cùng giám sát. Ông cũng cam kết Chính Phủ sẽ xem xét bổ sung nguồn vốn nếu cần thiết, trên tinh thần không để thiếu nguồn lực cho dự án y tế thiết yếu nhưng cũng phải sử dụng ngân sách hiệu quả, tránh lãng phí.
Việc sớm đưa Bệnh viện Ung bướu Cần Thơ vào vận hành không chỉ có ý nghĩa với thành phố Cần Thơ mà còn với toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long, góp phần giảm tải cho các bệnh viện tuyến trung ương và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe người dân./.
Cơ quan chức năng vào cuộc “Vụ cô gái ôm con bị đánh trên livestream”
Từ ngày 13 và 14 tháng Bảy năm 2025, mạng xã hội Việt Nam đồng loạt chia sẻ đoạn livestream dài gần 10 phút ghi lại cảnh một cô gái trẻ bế theo con nhỏ khoảng hơn 1 tuổi, bị một người đàn ông liên tục đánh đập, xô đẩy và dùng lời lẽ lăng mạ ngay giữa nhà riêng. Sự việc được cho là diễn ra tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội và nhanh chóng thu hút hàng triệu lượt xem, bình luận phẫn nộ từ cộng đồng mạng.
Theo nội dung đoạn video, cô gái liên tục ôm con nhỏ vào lòng, vừa né tránh vừa cố gắng van xin người đàn ông dừng tay nhưng không được. Người đàn ông mặc áo thun trắng, tay cầm điện thoại, vừa quay livestream vừa lớn tiếng mắng chửi, đồng thời không ngần ngại tát, đẩy ngã người phụ nữ trước mặt đứa trẻ. Đáng chú ý, suốt quá trình phát trực tiếp, người này còn nhấn mạnh nhiều lần rằng “cho mọi người biết bộ mặt thật” và “không sợ ai hết,” khiến nhiều người nghi ngờ đây là hành vi bạo hành mang tính đe dọa công khai.
Ngay sau khi đoạn clip lan truyền, báo chí và cơ quan chức năng đã vào cuộc xác minh. Theo thông tin bước đầu từ Công an huyện Đông Anh, danh tính cô gái và người đàn ông trong video đã được xác định, hai bên có quan hệ vợ chồng nhưng hiện đã ly thân. Người phụ nữ trong clip được xác nhận là chị N.T.L., 27 tuổi, quê ở Thái Bình, tạm trú tại xã Nam Hồng, huyện Đông Anh. Người đàn ông là chồng cũ của chị L., tên Đ.V.T., 32 tuổi, làm nghề kinh doanh tự do.
Lãnh đạo Công an huyện Đông Anh cho biết, cơ quan điều tra đã mời cả hai người liên quan lên làm việc ngay trong chiều ngày 14 tháng Bảy. Qua lời khai ban đầu, chị L. cho biết thời gian qua thường xuyên bị chồng cũ gây sự, tìm đến nơi ở đòi gặp con và xảy ra tranh cãi. Hôm xảy ra sự việc, anh T. tiếp tục tìm đến và có hành vi bạo lực như trong clip.
Hiện chị L. và cháu bé đã được lực lượng chức năng đưa đi kiểm tra sức khỏe và tạm thời bố trí chỗ ở an toàn. Cơ quan chức năng cũng đang trưng cầu giám định thương tích và xem xét hành vi của người đàn ông theo hướng xử lý hình sự nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Theo luật sư Nguyễn Minh Tiến thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, với các dấu hiệu thể hiện rõ ràng trong clip, người đàn ông có thể bị xử lý về tội cố ý gây thương tích hoặc bạo hành gia đình theo Bộ luật Hình sự Việt Nam. Ngoài ra, việc phát trực tiếp cảnh đánh đập người khác trước đông đảo người xem còn có thể bị xem xét xử lý về hành vi làm nhục người khác, gây rối trật tự công cộng hoặc vi phạm quy định về an toàn mạng xã hội.
Vụ việc hiện đang nhận được sự quan tâm đặc biệt từ cộng đồng mạng và dư luận xã hội. Nhiều ý kiến cho rằng cần xử lý nghiêm minh để răn đe, đặc biệt trong bối cảnh tình trạng bạo hành phụ nữ, trẻ em vẫn còn diễn ra phức tạp ở nhiều địa phương. Trên các diễn đàn mạng xã hội lớn như Facebook, TikTok, các hội nhóm bảo vệ phụ nữ và trẻ em đã liên tục kêu gọi chính quyền vào cuộc nhanh chóng, không để sự việc chìm xuồng.
Chiều 14 tháng Bảy, đại diện Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội cho biết đang phối hợp với công an và chính quyền địa phương để hỗ trợ tâm lý, pháp lý cho nạn nhân và con nhỏ, đồng thời theo dõi sát diễn biến điều tra để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho hai mẹ con.
Dự kiến trong vài ngày tới, cơ quan chức năng sẽ công bố kết luận sơ bộ và hướng xử lý cụ thể vụ việc./.
Thỏa thuận thuế quan Hoa Kỳ–Việt Nam: Không làm doanh nghiệp an tâm
Trước bối cảnh thuế quan mà Hoa Kỳ áp đặt ở nhiều quốc gia Châu Á, Việt Nam đã nhận được mức ưu đãi đáng kể: thuế nhập khẩu ban đầu mà Hoa Kỳ dự kiến áp đặt cho hàng hóa Việt Nam là từ 46%, được giảm xuống 20% nhờ thỏa thuận mới. Đây là bước đi quan trọng nhằm để Việt Nam bảo toàn hoạt động xuất khẩu.
Tuy nhiên, thỏa thuận này chưa được thống nhất rõ ràng về văn bản, điều khoản và định nghĩa cụ thể, và nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam cũng chưa công bố thông tin chính thức, đầy đủ cho người dân lẫn doanh nghiệp trong nước được biết. Đặc biệt là điều khoản về “hàng hoá trung chuyển” nhằm kiểm soát nguyên vật liệu từ Trung Quốc khiến nhiều doanh nghiệp lao đao, tuần tự sản xuất như thế nào để được hưởng mức thuế 20%, nếu không sẽ bị áp mức thuế lên đến 40% .
Ngoài ra, phía Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam đồng ý mở cửa hoàn toàn cho hàng hóa của Hoa Kỳ miễn thuế, ngược lại phía Việt Nam hiện vẫn chưa có phản hồi chính thức nào về các nội dung cam kết này.
Rất nhiều công ty dệt may và da giày, vốn sử dụng tới 70% đầu vào từ Trung Quốc, đang đứng trước nguy cơ bị áp thêm thuế nếu “định nghĩa sản xuất đáng kể” không được đưa rõ trong thỏa thuận.
Việc Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump công bố mức mới thay vì mức 11% mà phía Việt Nam kỳ vọng đã khiến giới đầu tư và truyền thông quốc tế bày tỏ sự ngạc nhiên, thậm chí thất vọng.
Dù dòng vốn FDI vẫn duy trì mạnh khoảng 21,5 tỷ USD chỉ trong 6 tháng đầu năm, sự thiếu rõ ràng trong thỏa thuận đang tác động tiêu cực đến tâm lý doanh nghiệp và khả năng định hướng kế hoạch dài hạn.
Mục tiêu của Hoa Kỳ rõ ràng: giảm phụ thuộc vào Trung Quốc, lôi kéo Việt Nam trở thành “công xưởng thay thế” với lợi thế nhân công thấp.
Tuy vậy, Việt Nam cũng đang phải cân nhắc giữa mối quan hệ với hai đối tác lớn: nếu áp đặt định nghĩa hàng hóa trung chuyển quá chặt, chúng ta đứng trước nguy cơ mất ưu thế xuất khẩu, làm suy giảm FDI, ảnh hưởng chuỗi cung ứng quốc gia.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam kiến nghị cần sớm có văn bản pháp lý, có tính ràng buộc rõ về mức thuế áp từng nhóm hàng, đặc biệt với hàng sử dụng nguyên liệu nhập khẩu. Điều này giúp tạo sự ổn định lâu dài. Do doanh nghiệp chịu áp lực duy trì chuỗi nên cần xúc tiến đa dạng hóa nguyên liệu đầu vào, giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc. Cơ quan quản lý cần lắng nghe, điều chỉnh chính sách triển khai cụ thể tỉ lệ, thủ tục để giảm bất công cho các doanh nghiệp nội địa và người lao động trong.
Tính đến thời điểm hiện tại, hàng hóa xuất khẩu Việt Nam cơ bản giảm áp lực hơn so với một số quốc gia bị Hoa Kỳ áp thuế, tuy nhiên lại tiềm ẩn rủi ro lớn do thiếu minh bạch và điều khoản thiếu rõ ràng.
Trong khi đó, ngoài doanh nghiệp thì phía người lao động như nông dân cũng đang phải gồng mình với chi phí đầu vào tăng, giá nguyên liệu niêm yết cao và gần như đang chênh vênh giữa mức thuế 20% và ngưỡng bị áp mức thuế 40%. Người chịu thiệt cuối cùng là những người thực sự làm ra sản phẩm./.
Thêm gánh nặng cho người nghèo: Bảo hiểm thất nghiệp với lao động Part-Time
Ngày 13 tháng Bảy năm 2025, truyền thông nhà nước Cộng Sản Việt Nam đồng loạt đăng tải thông tin gây xôn xao dư luận: “làm part-time cũng phải đóng bảo hiểm thất nghiệp. Theo đó, những người lao động ký hợp đồng theo các hình thức: Hợp đồng không xác định thời hạn, hợp đồng xác định thời hạn và hợp đồng theo mùa vụ hoặc theo dự án từ 3 tháng đến dưới 12 tháng đều nằm trong đối tượng phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Điều này áp dụng cả với những ai làm part- time miễn là có ký hợp đồng lao động.
Hiện nay, toàn quốc đã có hơn 15,3 triệu người đóng bảo hiểm thất nghiệp, đạt 91,6% kế hoạch đặt ra, tăng 206.000 người so với năm. Theo Luật Việc làm 2013 (sửa đổi, bổ sung qua Luật Bảo hiểm xã hội 2024), người lao động làm theo hợp đồng đủ 1 tháng trở lên (dù part‑time) và có thời gian làm việc ít nhất 14 ngày trong tháng sẽ phải đóng bảo hiểm xã hội bao gồm cả bảo hiểm thất nghiệp.
Cụ thể, mức đóng hiện hành: Bảo hiểm xã hội 8% tiền lương, bảo hiểm thất nghiệp 1% lương, người sử dụng lao động đóng thêm 1%, và Nhà nước hỗ trợ tối đa 1%. Nếu hợp đồng dưới 1 tháng hoặc không đủ 14 ngày làm việc trong tháng, người lao động không phải đóng bảo hiểm thất nhghiệp.
Dù làm part‑time, người lao động vẫn phải trích lương đóng 8% Bảo Hiểm Xã Hội và 1% Bảo Hiểm Thất Nghiệp khi đủ điều kiện. Với thu nhập thấp, đây là áp lực không nhỏ, nhất là với sinh viên, lao động giờ, người mới vào nghề. Nếu thời gian làm việc ngắt quãng, người lao động có thể không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp. Điều này khiến họ đóng nhưng không chắc được nhận quyền lợi tương xứng.
Với nhiều lao động part‑time, doanh nghiệp (đặc biệt là mô hình nhỏ hoặc startup) phải đóng thêm chi phí Bảo Hiểm Xã Hội, Bảo Hiểm Thấp Nghiệp, gây áp lực tài chính và có thể dẫn đến hạn chế tuyển dụng nhân sự hoặc nâng giá bán để bù đắp.
Luật áp dụng công bằng, không phân biệt full‑time hay part‑time khi có hợp đồng đủ tháng đây là điều đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, quy định này được dư luận đánh giá là quá cứng nhắc, chưa phù hợp với đặc thù công việc linh hoạt, ngắn hạn trong bối cảnh thị trường lao động thay đổi nhanh chóng.
Đặc biệt, không ít lao động part‑time chỉ đi làm vài tuần, rồi nghỉ, nhưng vẫn phải đóng bảo hiểm cả tháng nếu đủ điều kiện 14 ngày. Chưa kể, họ không thể hưởng quyền lợi đầy đủ nếu đóng ngắn ngày và không đóng liên tục./.
Ván bài mạo hiểm, Tô Lâm đặt cược kinh tế tư nhân làm trụ cột
Mới đây, Tổng Bí Thư Cộng Sản Việt Nam Tô Lâm đã thẳng thắn tuyên bố việc phát triển kinh tế tư nhân là đòn bẫy mạnh mẽ cho Việt Nam thịnh vượng, kêu gọi chuyển từ tư duy “tiểu nông, manh mún” lên tư duy lớn, lên doanh nghiệp quy mô quốc gia, hướng tới đóng góp 70% GDP vào năm 2030. Ông đề xuất chiến lược cải cách hành chính, xây dựng thể chế minh bạch, hình thành luật phát triển kinh tế tư nhân và Ban chỉ đạo cao nhất do Thủ tướng đứng đầu.
Tầm nhìn này rõ ràng rất táo bạo, đánh dấu bước chuyển mang tính chiến lược từ kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, chính độ táo bạo ấy cũng đồng nghĩa với việc ông Tô Lâm đang “đặt cược” nhiều vào khả năng thay đổi mạnh mẽ thể chế và tư duy kinh doanh vốn cần thời gian và chịu nhiều áp lực từ cả nội bộ và quốc tế.
Đầu tháng Bảy năm 2025, Hoa Kỳ áp đặt đòn thuế quan đối với hàng hóa Việt Nam, dù đích nhắm chính yếu là vào các đối thủ thương mại của Hoa Kỳ, nhưng lại gây chấn động cho các ngành chủ lực như dệt may, da giày, điện tử… của Việt Nam. Điều này có thể kéo lùi mục tiêu tăng trưởng 8%–10% mà ông Tô Lâm công khai đề ra cho năm nay. Đồng thời phát sinh rủi ro là nếu chính sách kinh tế tư nhân không gắn liền với an ninh thương mại và giảm thiểu rủi ro toàn cầu, tham vọng phát triển nhanh rất có thể gặp trở lực. Ông Tô Lâm kêu gọi giục bỏ định kiến về kinh tế tư nhân. Nhưng để có được bước đột phá, cần cải cách mạnh mẽ về hành chính, pháp luật, tài chính điều mà chưa phải lúc nào cũng đi nhanh và đồng bộ.
Dư luận lo ngại rằng chính chính sách còn lỏng lẻo, chậm trễ và thiếu công cụ thực thi khiến tham vọng lớn trở nên viển vông. Nếu không có hành lang pháp lý mạnh và cơ chế giám sát hiệu quả, các mục tiêu như xây dựng tập đoàn tư nhân “khổng lồ” hay luật đặc thù cho tư nhân khó hiện thực.
Rõ ràng, dư luận có lý khi lo ngại khi đặt mục tiêu tăng trưởng 8%–10% mà chưa giải quyết được môi trường kinh doanh bên trong và áp lực quốc tế, tham vọng sẽ là thất bại. Nếu chính sách thiên về các “ông lớn” mà không hỗ trợ SME và hộ cá thể, rất nhiều người sẽ bị bỏ lại phía sau. Tham vọng lớn nhưng thực thi chậm sẽ làm mất niềm tin, giảm uy tín lãnh đạo đặc biệt với vai trò kiến tạo của ông Tô Lâm./.
Hà Nội cấm xe máy chạy xăng từ tháng Bảy năm 2026
Vào ngày 12 tháng Bảy, năm 2025, Thủ Tướng Cộng Sản Việt Nam Phạm Minh Chính đã ký Chỉ thị số 20/CT‑TTg, trong đó yêu cầu Hà Nội đến ngày 1 tháng Bảy năm 2026 không còn xe mô tô, xe gắn máy sử dụng nhiên liệu hóa thạch (xăng dầu) lưu thông trong vùng giới hạn bởi Vành Đai 1. Đây là bước đi quyết liệt nhằm giảm ô nhiễm và xây dựng “vùng phát thải thấp”.
Vành đai 1 là tuyến đường khép kín vòng quanh vùng lõi đô thị Hà Nội, dài khoảng 7,2 km, đi qua các quận: Đống Đa, Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Ba Đình, Tây Hồ, Cầu Giấy. Các tuyến cụ thể gồm: Trần Khát Chân – Đại Cồ Việt – Xã Đàn – Ô Chợ Dừa – Đê La Thành – Hoàng Cầu – Cầu Giấy – Bưởi – Lạc Long Quân – Âu Cơ – Nghi Tàm – Yên Phụ – Trần Nhật Duật – Trần Quang Khải – Trần Khánh Dư – Nguyễn Khoái, rồi khép kín tại Trần Khát Chân.
Từ 1 tháng Một năm 2028, lộ trình tiếp theo sẽ mở rộng cấm mô tô, xe máy và hạn chế ô tô cá nhân xăng dầu trong Vành Đai 1 & 2. Đến năm 2030: áp dụng tương tự trong phạm vi Vành Đai 3
Chỉ thị trên của Thủ Tướng Chính giao Hà Nội xây dựng đề án “vùng phát thải thấp” trong quý III/2025, đẩy mạnh tuyên truyền, cơ chế hỗ trợ người dân chuyển đổi phương tiện, khuyến khích xe điện, phát triển hạ tầng sạc và phương tiện công cộng như buýt điện, metro…
Mặc dù mục tiêu cải thiện chất lượng không khí và ổn định giao thông ở trung tâm Hà Nội là đáng khen, nhưng lộ trình cấm xe máy xăng từ tháng Bảy năm 2026 gây ra nhiều lo ngại thực tiễn. Hiện nay, mạng lưới xe buýt điện, metro và hạ tầng sạc cho xe điện vẫn đang hoàn thiện. Ít nhất hàng triệu xe máy xăng cần thay thế trong vòng chưa đầy một năm. Nếu không cung cấp đủ phương tiện thay thế, việc cấm có thể khiến nhiều người dân, đặc biệt công nhân, sinh viên và người lao động xe ôm, mất phương tiện đi lại, bị ảnh hưởng cả thu nhập lẫn sinh hoạt.
Các chuyên gia kinh tế và hoạch định chính sáchnhấn mạnh cần có chính sách hỗ trợ tài chính cụ thể, ví dụ: cho vay mua xe điện, đổi xe cũ,…Tuy nhiên, đến nay chưa thấy kế hoạch rõ ràng từ chính quyền thành phố. Nếu dân không có đủ điều kiện mua xe mới, chỉ cấm mà không giúp được người dân thì chính sách có thể gây căng thẳng xã hội.
Ngoài ra, nếu chỉ dựa vào ý thức, hệ thống kiểm tra rất khó khả thi. Còn nếu áp dụng nhiều trạm/trạm kiểm soát, dân sẽ cảm thấy bị xâm phạm quyền tự do đi lại, tạo điểm nóng xã hội. Vấn đề môi trường cũng cần cân nhắc, bụi mịn PM2.5 trong không khí do nhiều nguồn như xây dựng, công nghiệp, đốt rơm rạ. Nếu chỉ khống chế xe cá nhân mà không giải quyết đồng bộ, ô nhiễm vẫn sẽ ở mức cao./.
Phó Thủ Tướng báo động: 2.887 dự án đóng băng
Tại diễn đàn Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2025 vào những ngày tháng Bảy vừa qua, Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh rằng Việt Nam đang có 2.887 dự án “treo”, thu hút tới 235 tỷ USD vốn đầu tư, tương đương gần 50% GDP. Và chiếm khoảng 347.000 ha đất đai. Đây chính là nguồn lực “bị chôn chân” trên giấy tờ, chưa thể hiện năng lực thật của nền kinh tế.
Con số này thậm chí cao hơn hẳn so với thống kê 2.200 dự án mà Thủ tướng Phạm Minh Chính báo cáo trước Quốc hội, cho thấy tình trạng “đóng băng” đang càng trầm trọng hơn. Theo Phó Thủ tướng, sự trì trệ này không phải dothiếu vốn hay thiếu kỹ thuật, mà phần lớn là do thể chế chưa hoàn thiện, bao gồm các quy định về đất đai, đầu tư, quy hoạch, môi trường và các thủ tục hành chính rườm rà. Đây là rào cản lớn khiến các dự án không thể triển khai, dù nguồn lực đã sẵn sàng.
Việt Nam đang đặt mục tiêu tăng trưởng GDP đạt 8% năm 2025, với khát vọng vươn tới tăng trưởng hai con số (10%) trong giai đoạn 2026–2030. Tuy nhiên, nếu không “giải phóng” được hàng nghìn dự án này, nền kinh tế khó có thể khai thác tiềm năng đầy đủ: Công suất dư thừa hạ tầng không được sử dụng, dòng vốn đầu tư bị đóng băng, giảm động lực phát triển, tăng trưởng duy trì ở mức dưới kỳ vọng, giảm khả năng mở rộng quy mô.
Phó Thủ Tướng Dũng đề xuất các biện pháp then chốt để giải quyết vấn đề: Sửa Luật Đất đai, Quy hoạch, Đầu tư, Môi trường dự kiến tại kỳ họp Quốc hội cuối năm 2025. Phân cấp, phân quyền rõ ràng giữa các cấp chính quyền để xử lý thủ tục, tránh “đùn đẩy trách nhiệm”. Đầu tư công để thu hút vốn tư nhân; tăng cường đầu tư hạ tầng hiện đại, năng lượng, giao thông, đô thị. Đặc biệt đẩy mạnh cải cách hành chính, sáp nhập đơn vị, nâng cao năng lực ứng biến quốc tế .
Việc tháo gỡ 2.887 dự án tương đương giải phóng 235 tỷ USD, biến nguồn lực tiềm năng thành sức bật cho tăng trưởng. Nếu không sớm giải quyết, Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội phát triển, tụt hậu so với mục tiêu 2030 – 2045. Đây là bài toán sống còn cho tham vọng tăng trưởng chất lượng, bền vững./.
2.887 dự án “đóng băng”: Lãng phí khổng lồ hay bóng dáng lợi ích nhóm?
Ngày 8 tháng Bảy, 2025 vừa qua, tại Diễn đàn Tăng trưởng Kinh tế Việt Nam 2025, Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng đưa ra con số gây chú ý mạnh: hiện cả nước có tới 2.887 dự án đang vướng mắc, với tổng vốn đầu tư lên tới 235 tỷ USD và diện tích đất 347.000 ha. Đây là con số vượt xa mức 2.200 dự án mà Thủ Tướng Phạm Minh Chính từng công bố trước Quốc Hội Cộng Sản Việt Nam không lâu trước đó.
Câu hỏi ngay lập tức đặt ra: liệu đây chỉ là hệ quả của sự lãng phí thể chế, hay còn là biểu hiện của tham nhũng, lợi ích nhóm tinh vi? Theo thông tin chính thức từ Chính phủ, phần lớn nguyên nhân khiến các dự án “đóng băng” là do vướng mắc về pháp lý: đất đai, đầu tư, quy hoạch, môi trường. Cơ chế hiện hành còn nhiều chồng chéo, chưa rõ ràng, khiến quá trình cấp phép kéo dài.
Việt Nam đang trong quá trình sửa đổi đồng bộ các luật quan trọng như Luật Đất đai, Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư. Chính vì vậy, nhiều dự án nằm trong diện chờ điều chỉnh hoặc chưa thể triển khai do thiếu căn cứ pháp lý.
Ở góc nhìn khác, có thể cho rằng con số 2.887 dự án phản ánh sự chậm trễ về thể chế hơn là sai phạm. Đây là lãng phí tài nguyên, lãng phí vốn xã hội và làm chậm đà tăng trưởng nhưng không đồng nghĩa với gian lận. Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam từng chứng kiến hàng loạt đại án kinh tế liên quan đến bất động sản, đầu tư công, câu hỏi dư luận đặt ra là hợp lý: Có hay không tình trạng “xí phần đất”, “găm dự án”? Tức xin dự án chỉ để giữ đất, đợi tăng giá hoặc chuyển nhượng sang tay, mà không thật sự triển khai? Có hay không chuyện “xin – cho”, “bôi trơn” trong phê duyệt hồ sơ, khiến dự án hợp lý bị chậm, còn dự án của nhóm lợi ích lại được ưu ái? Vì sao có dự án vướng từ năm này qua năm khác mà không bị thu hồi, kiểm điểm rõ ràng?
Các vụ án liên quan đến Vạn Thịnh Phát, Tân Hoàng Minh… là minh chứng rõ ràng rằng thủ tục đầu tư và đất đai tại Việt Nam là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng. Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng cũng thừa nhận tại diễn đàn rằng: “Nếu không quyết tâm tháo gỡ, sẽ còn tình trạng trục lợi chính sách.” Câu nói ấy là lời xác nhận gián tiếp rằng ngoài chuyện chậm thể chế, vẫn có bóng dáng lợi ích nhóm.
Muốn giải bài toán này, chỉ có một cách công khai danh sách 2.887 dự án chậm tiến độ trên toàn quốc. Cụ thể: Tên dự án, chủ đầu tư, quy mô, thời gian bị đình trệ. Lý do vướng mắc: đất đai, quy hoạch, hay chính sách? Trách nhiệm của cấp nào, bộ ngành nào liên quan?
Nếu chỉ nói chung chung là “vướng mắc pháp lý”, sẽ rất khó thuyết phục người dân rằng mọi việc đều trong sáng. Việc công khai này cũng giúp báo chí, xã hội giám sát, tạo áp lực buộc các địa phương phải giải quyết dứt điểm, thay vì để dây dưa kéo dài.
Một quốc gia đang phát triển không thể chấp nhận để hơn 2.800 dự án, 235 tỷ USD và gần 350.000 ha đất bị “chôn chân” vô thời hạn.Nếu là lãng phí, cần cải cách nhanh hơn, mạnh hơn. Nếu là lợi ích nhóm, tham nhũng ngầm, cần xử lý nghiêm minh, không khoan nhượng. Để khẳng định được đâu là lãng phí vô ý, đâu là chủ ý trục lợi, điều kiện tiên quyết vẫn là minh bạch thông tin, truy trách nhiệm cụ thể. Chỉ khi đó, nguồn lực khổng lồ đang bị “đóng băng” mới thực sự trở thành động lực cho tăng trưởng quốc gia chứ không còn là “của để dành” của nhóm quyền lực./.
TIÊU ĐIỂM: Việt Nam trước áp lực nhân quyền từ Liên Hiệp Quốc
Vào hai ngày 7 và 8 của tháng Bảy năm 2025, Việt Nam lại một lần nữa trở thành tâm điểm chú ý tại ánh sáng Liên Hiệp Quốc, khi Ủy ban Nhân quyền (Human Rights Committee) đặt câu hỏi thẳng thắn về tình trạng tự do dân sự và chính trị tại Việt Nam. Báo cáo địa phương được công bố không chỉ là một bản danh sách khô móc các khuyết điểm, mà là lời nhắc nhở rõ ràng rằng Việt Nam đang đứng trước một lựa chọn về con đường hội nhập và trách nhiệm quốc tế.
Theo báo cáo nói trên, Việt Nam bị phản ánh về nhiều vấn đề: hạn chế quyền tự do biểu đạt, tự do báo chí, quốc hội hoạt động mang tính hình thức, tù nhân lương tâm và tình trạng đàn áp các tổ chức xã hội dân sự độc lập. Các đại diện của Liên Hiệp Quốc cũng đặt ra nghi vấn về đạo luật an ninh mạng, vốn bị chỉ trích là công cụ kiểm duyệt và bóp nghẹt tự do trên không gian mạng.
Đáng lưu ý, cuộc đối thoại này diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện nhiều thỏa thuận thương mại với Hoa Kỳ, EU, Nhật và các quốc gia ASEAN khác. Những cam kết quốc tế buộc Việt Nam phải cân nhắc kỹ hơn về hình ảnh nhân quyền của mình.
Chính Phủ Cộng Sản Việt Nam thường dùng lập luận rằng “Việt Nam có điểm xuất phát riêng, trật tự xã hội đặc thù” để giải thích việc duy trì các quy định nghiêm ngặt về an ninh, báo chí, hội nhập. Tuy nhiên, với tốc độ hội nhập kinh tế và mối quan hệ đa phương ngày càng rõ ràng, lập luận này không còn được quốc tế dễ dàng chấp nhận.
Thực tế, trong những năm gần đây, tình trạng bắt giữ và xét xử các nhà hoạt động vì quyền con người, nhà báo tự do, blogger, luật sư và những người bảo vệ quyền lợi cộng đồng vẫn tiếp tục diễn ra tại Việt Nam. Theo thống kê từ tổ chức Human Rights Watch, Việt Nam hiện có ít nhất 150 tù nhân lương tâm bị giam giữ với các cáo buộc như “tuyên truyền chống nhà nước”, “lợi dụng quyền tự do dân chủ”, “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền”. Những điều luật này thường bị quốc tế chỉ trích là mơ hồ và dễ bị lạm dụng.
Ví dụ, vụ bắt những thành viên của Hội nhà báo độc lập Việt Nam vào năm 2020 đã gây làn sóng phản đối mạnh mẽ từ EU và Hoa Kỳ. Hay trường bắt mục sư Nguyễn Mạnh Hùng vào hồi giữa tháng Một năm 2025 chỉ vì đăng tải ý kiến phê phán, phản biện trên mạng xã hội, càng làm dấy lên lo ngại về mức độ kiểm soát ngôn luận tại Việt Nam.
Điều đáng chú ý là, Việt Nam luôn khẳng định với cộng đồng quốc tế rằng các quyền cơ bản của công dân vẫn được bảo đảm và các vụ bắt giữ là do vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, cơ chế pháp luật hiện hành lại cho phép các cơ quan chức năng sử dụng những điều khoản quá rộng, không rõ ràng để hình sự hóa các hành vi biểu đạt ý kiến chính trị hoặc xã hội.
Bên cạnh đó, việc đàn áp các tổ chức xã hội dân sự cũng là một chủ đề nhức nhối. Những nhóm hoạt động trong lĩnh vực môi trường, quyền lao động, hỗ trợ người yếu thế thường xuyên bị cản trở đăng ký pháp lý, bị kiểm tra thuế, thậm chí bị điều tra hình sự. Điều này đặt ra câu hỏi về sự tồn tại thực chất của xã hội dân sự độc lập tại Việt Nam.
Về khía cạnh quốc tế, các tổ chức như Human Rights Watch, Amnesty International, Liên đoàn Nhân quyền Quốc tế đều có chung nhận định rằng Việt Nam cần cải cách hệ thống pháp luật để phù hợp với các công ước quốc tế mà mình đã tham gia ký kết, trong đó có Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR).
Khuyến nghị từ Liên Hiệp Quốc bao gồm: Bãi bỏ hoặc sửa đổi các điều luật hình sự liên quan đến “tuyên truyền chống nhà nước”, “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền”; Đảm bảo quyền tự do hội họp, lập hội, tự do báo chí, tự do tôn giáo; Thả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm; Mở rộng không gian cho các tổ chức xã hội dân sự hoạt động một cách hợp pháp và độc lập.
Điều này không chỉ vì uy tín quốc tế mà còn vì lợi ích thiết thân của người dân Việt Nam: một xã hội lành mạnh, nơi mọi người được bày tỏ ý kiến mà không lo sợ bị trừng phạt, nơi pháp luật là công cụ bảo vệ chứ không phải là nhà tù siết chặt tự do. Cộng đồng quốc tế cần Cộng Sản Việt Nam phải thể hiện thiện chí và quyết tâm cải cách, bắt đầu từ việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người một cách thực chất và có trách nhiệm./.



