Ba mươi năm… Một đời người có khi chỉ cần một khoảnh khắc để gặp nhau, nhưng để đi cùng nhau ba mươi năm – ấy là duyên, là nợ, là một phần định mệnh mà có lẽ chính chúng ta cũng không bao giờ lý giải được.
Tôi vẫn nhớ như in buổi đầu gặp Anh – một buổi lễ Phật Đản trang nghiêm, thanh tịnh, được tổ chức trong ngôi chùa nhỏ nằm khiêm nhường bên góc đường số 2, downtown San Jose. Ngày ấy, chùa Pháp Duyên Tịnh Xá còn là một trung tâm sinh hoạt lớn của Phật giáo, văn hóa, nghệ thuật, từ thiện xã hội, là nơi phát hành sách An Tiêm từ Pháp quốc, và cũng là nơi tờ thông tin Quê Mẹ của anh Võ Văn Ái và chị Ý Lan đặt trụ sở.
Giữa không gian trầm mặc của tiếng chuông, tiếng mõ, giữa hương trầm bảng lảng, Anh và tôi – một Cư sĩ Phật tử và một Huynh trưởng Gia đình Phật tử – gặp nhau như thể đã quen từ lâu rồi.
Chúng tôi có chung một mạch nguồn: tâm hướng Phật, lòng hướng về lẽ công bằng, và trái tim dành cho những phận đời bất hạnh.
Suốt ba mươi năm làm việc bên nhau, tôi chứng kiến biết bao người đến rồi đi trong cuộc đời Anh. Có người đến vì sức mạnh của hệ thống truyền thông báo chí mà Anh nắm giữ. Có người đến bằng tấm lòng bằng hữu, bằng lý tưởng chung, bằng sự đồng cảm.
Còn tôi – tôi đến với Anh bằng tất cả những điều ấy, nhưng trên hết là tình tri kỷ.
Tri kỷ – nghĩa là biết tôn trọng nhau. Biết lắng nghe. Biết giữ kín những điều cần giữ. Biết nhường nhịn, biết chịu thiệt thòi, biết đặt cái tâm lên trước cái tôi. Có lẽ vì vậy mà suốt ba mươi năm, giữa Anh và tôi, một giọt nước cũng không tràn ly và có lẽ lý do đó Anh không tiếc lời moi hết ruột gan kể cho tôi nghe hết tuốt tuồng tuột những gì về Anh
Anh thì khác tôi. Anh trực tính, thẳng thắn, nóng nảy, nhưng tốt bụng đến lạ. Anh ứng xử nhanh, rộng lượng, phóng khoáng, hào hoa với mọi người. Anh trải lòng với bất cứ ai cần đến Anh, sẵn sàng giúp đỡ không tính toán. Còn tôi – tôi lặng lẽ hơn, trầm hơn, nhưng luôn đứng sau Anh, như một điểm tựa thầm lặng.
Ngoài tờ báo in, Anh luôn muốn làm cho truyền thông báo chí phong phú hơn. Tôi đồng hành cùng Anh trong chương trình Phố Đêm, trên làn sóng radio 1430, 1500. Anh với tôi liên minh với tờ Quê Mẹ của anh Võ Văn Ái và chị Ý Lan ở Paris.
Anh cùng tôi đồng hành với quý Ngài Tăng Thống Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Hòa thượng Tuệ Sỹ, Làng Mai Thích Nhất Hạnh, linh mục Nguyễn Văn Lý, linh mục Đặng Hữu Nam… để đòi hỏi tự do tôn giáo, nhân quyền, và phẩm giá cho con người Việt Nam.
Tôi và Nguyễn Hồng Dũng cùng Anh đi qua bao thăng trầm, dùng truyền thông như một vũ khí của sự thật.
Tôi nhớ những ngày chúng ta ăn uống, ngủ lại tại tòa soạn để đấu tranh chống hãng Victoria Secrets – khi họ in hình Đức Phật lên sản phẩm đồ lót phụ nữ. Anh kết hợp với Phật giáo Thái Lan, dùng sức mạnh truyền thông để tẩy chay. Cuối cùng, Victoria Secrets phải nhượng bộ, gỡ hình ảnh xuống và chính thức xin lỗi. Đó là chiến thắng của niềm tin, của lòng tôn kính, của tinh thần bất khuất. Còn nữa Anh vớì tôi kết hợp với nhà báo Nacy Buì tức là Triều Giang ở Texas đấu tranh đòi công lý và phúc lợi cho nạn nhân Nạn nhân Việt Nam do công ty Đài Loan Formosa chủ yếu là ngư dân và cộng đồng ven biển bị ảnh hưởng nặng nề bởi chất thải độc hại năm 2016
Anh cùng với nhóm thân hữu giúp đỡ những phận đời bất hạnh nơi xứ lạ quê người: phụ nữ bị bạo hành, gia đình neo đơn, nạn nhân cháy nhà, lũ lụt ở Việt Nam. “Tình Ấm Mùa Đông” ra đời từ tấm lòng của Anh, của Thái Quốc Hùng, Nguyễn Hồng Dũng, chị Vân Lê, và tôi.
Những đại lễ Phật Đản, Vu Lan quy mô hàng chục ngàn người tham dự – Anh đứng sau, âm thầm, không phô trương. Anh từng nói: “Làm điều tốt cho cộng đồng, cho đất nước… không nên kể công. Mình là Phật tử, làm xong thì quên, để tâm được an lạc.” Đó là triết lý sống của Anh.
Và cũng là điều khiến tôi kính trọng Anh nhất.
Cứ như thế… thời gian trôi đi, và rồi một ngày cách đây đã tám năm, Anh bị cơn đột quỵ quật ngã. Từ đó, Anh ngồi trên chiếc xe lăn dành cho những con người tàn phế, thân thể Anh mang theo biết bao bệnh tật chồng chất. Cơ thể không còn lành lặn, đôi chân không còn vững, thận phải lọc ba lần mỗi tuần, tim từng trải qua những cuộc phẫu thuật, rồi bao nhiêu chứng bệnh khác cứ lần lượt kéo đến.
Nhưng điều kỳ lạ là… Anh chưa bao giờ đầu hàng.
Ngày cũng như đêm, Anh chống chọi với bệnh tật bằng một nghị lực mà tôi chưa từng thấy ở bất kỳ ai. Có những lúc Anh mệt đến mức gục xuống bàn làm việc, có khi ngồi bất động trên chiếc xe lăn như một thân cây bị bão quật. Thế nhưng, chỉ cần hơi thở còn, Anh vẫn cố đến tòa soạn, vẫn làm việc, vẫn dịch bài, vẫn làm talk show, vẫn trò chuyện với thính giả như thể nỗi đau trong thân xác không hề tồn tại.
Anh từng nói với tôi một câu mà đến giờ tôi vẫn nhớ như một lời dạy: “Thân xác bệnh thì để bác sĩ lo. Còn phần của mình là giữ tinh thần và trí tuệ.”
Đó là triết lý sống của Anh – nhẹ nhàng, đơn giản, nhưng sâu sắc như một bài học cuối đời. Và tôi… tôi đã đi cùng Anh suốt tám năm ấy.
Tôi đẩy chiếc xe lăn đưa Anh đến những nơi Anh cần đến: sinh hoạt cộng đồng, họp hành, ra ngoài nhìn phố, nhìn người để thư giãn. Tôi làm điều đó không phải vì bổn phận, mà vì tình tri kỷ – thứ tình cảm không cần nói thành lời nhưng luôn hiện hữu.
Có lẽ cũng nhờ những chuyến đi ấy, nhờ những buổi trò chuyện ấy, mà Anh không rơi vào trầm cảm, không đánh mất trí nhớ, dù đã trải qua bao lần cấp cứu, bao lần phẫu thuật. Anh vẫn giữ được sự tỉnh táo, sự minh mẫn, và nhất là… giữ được chính mình.
Rồi đến lần cuối cùng…
Anh nhiễm bệnh, cơ thể suy kiệt, hơi thở trở nên nặng nhọc. Tôi nhìn thấy sự mệt mỏi hằn trên gương mặt Anh – một sự mệt mỏi không phải của thân xác, mà của một người đã chiến đấu quá lâu, quá bền bỉ.
Ba mươi năm – bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu dự án, bao nhiêu đêm thức trắng, bao nhiêu lần cùng nhau đứng trước bão tố – bỗng chốc trở thành ký ức.
Tôi đứng lặng trước tin ấy, như thể một phần đời mình vừa rơi xuống.
Ba mươi năm – bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu dự án, bao nhiêu đêm thức trắng, bao nhiêu lần cùng nhau đứng trước bão tố – bỗng chốc trở thành ký ức.
Anh đi rồi.
Nhưng những gì Anh để lại – tấm lòng, nhân cách, sự dấn thân, và tình tri kỷ – vẫn còn ở đây, trong tôi, trong cộng đồng, trong những người từng được Anh giúp đỡ.
Anh từng nói: “Làm xong thì quên.”
Nhưng tôi thì không quên được. Không bao giờ quên được.
Anh đi rồi, nhưng dấu chân Anh vẫn còn.
Anh đi rồi, nhưng ánh sáng Anh để lại vẫn ấm.
Anh đi rồi, nhưng tri kỷ… thì không bao giờ mất.
Hôm nay, tôi viết những dòng này như một lời tiễn biệt.
Một lời cảm ơn.
Một lời hứa rằng những điều Anh đã sống, đã làm, đã tin – tôi sẽ tiếp tục giữ gìn.
Anh và tôi – ba mươi năm.
Một đời tri kỷ.
Một đời không uổng phí.
Nguyễn Ngọc Mùi (12/29/2025)



