uốc Hội CSVN thông qua Luật Dẫn độ, giữ người khẩn cấp
Ngày 26 tháng 11 năm 2025, Quốc Hội cộng sản Việt Nam chính thức thông qua Luật Dẫn độ với tỉ lệ 426/ 430 đại biểu có mặt tán thành, một tỷ lệ ủng hộ rất cao. Luật gồm 4 chương, 45 điều, thiết lập một khung pháp lý riêng biệt và chi tiết hơn về dẫn độ, khác với các quy định trước đây vốn rải rác trong các văn bản quốc tế và luật tương trợ tư pháp.
Một trong những điểm nổi bật được dư luận đặc biệt quan tâm là quy định về quyền “giữ người trong trường hợp khẩn cấp” nhằm phục vụ mục đích dẫn độ. Cụ thể, tại Điều 33 của Luật, có hai trường hợp mà quyền giữ người này có thể được thi hành: 1/ Giữa Việt Nam và quốc gia khác, cả hai đều là thành viên điều ước quốc tế về dẫn độ; 2/ Giữa Việt Nam và quốc gia mà Việt Nam chưa ký điều ước dẫn độ. Trong cả hai trường hợp, nếu văn bản yêu cầu giữ người đủ hợp lệ, cơ quan chức năng Việt Nam do Bộ Công An làm đầu mối, có quyền quyết định đưa người vào “cơ sở lưu trú” để chờ yêu cầu dẫn độ chính thức.
Thời hạn tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp được quy định rõ ràng: với những quốc gia không có điều ước dẫn độ với Việt Nam, thời hạn tối đa là 45 ngày kể từ khi người bị giữ được đưa vào nơi lưu trú. Văn bản yêu cầu giữ người khẩn cấp từ phía nước ngoài bắt buộc phải nêu rõ lý do, mục đích, thông tin nhân thân của đối tượng, tội danh, tóm tắt nội dung vụ án; đồng thời cam kết bồi thường nếu có oan sai và đảm bảo thông tin cung cấp là chính xác.

Bên cạnh đó, Luật Dẫn độ cũng quy định ngưỡng tội phạm có thể bị dẫn độ: hành vi phạm tội mà pháp luật Việt Nam và pháp luật bên ngoài đều ghi nhận hình phạt tù từ 1 năm trở lên hoặc tù chung thân/tử hình mới đủ điều kiện dẫn độ. Nếu đối tượng đã bị kết án ở nước ngoài và còn ít nhất 6 tháng án tù phải chấp hành, vẫn có thể bị dẫn độ để thi hành hình phạt.
Về các trường hợp liên quan hình phạt tử hình: nếu một quốc gia yêu cầu dẫn độ và đề nghị Việt Nam không áp dụng hay không thi hành án tử hình đối với người bị dẫn độ, Bộ Công An sẽ phối hợp với các bộ, ngành liên quan để ra thông báo chính thức. Nếu người bị dẫn độ thuộc trường hợp không bị áp dụng hoặc không bị thi hành án tử hình theo luật Việt Nam thì phía Việt Nam sẽ đồng ý; nếu không thuộc trường hợp đó, việc không thi hành án tử hình cần có ý kiến của Chủ Tịch Nước.
Việc cộng sản Việt Nam ban hành Luật Dẫn độ với các quy định mới, đặc biệt là quyền giữ người khẩn cấp được giới chức lập pháp và tư pháp xem là cần thiết để hoàn thiện pháp luật, nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế trong hợp tác quốc tế về truy bắt, dẫn độ tội phạm. Theo các nhà làm luật, sau hơn 16 năm áp dụng các quy định từ Luật tương trợ tư pháp và các hiệp định song phương, đã xuất hiện nhiều bất cập, khiến công tác dẫn độ đôi khi bị cản trở. Luật mới với khung pháp lý rõ ràng, đồng bộ được kỳ vọng sẽ giúp Việt Nam chủ động hơn trong việc đưa các đối tượng phạm tội ra nước ngoài hoặc dẫn độ đối tượng truy nã từ bên ngoài về Việt Nam để xử lý.

Tuy nhiên, quy định về giữ người khẩn cấp trước khi có yêu cầu dẫn độ chính thức cũng vấp phải ý kiến tranh luận: nhiều đại biểu và chuyên gia lo ngại rằng quyền giữ người trong 45 ngày có thể ảnh hưởng tới quyền con người, nếu không có kiểm soát chặt chẽ và bảo đảm các điều kiện pháp lý như xác minh hồ sơ, đảm bảo cam kết bồi thường khi oan sai, giám sát nơi giam giữ, thời gian quy định… Trong phê duyệt cuối cùng, để đảm bảo tính khả thi và minh bạch, luật đã bổ sung thêm yêu cầu về quyết định giữ người, cơ chế quản lý, cũng như trách nhiệm của Bộ Công An trong việc ban hành hướng dẫn cụ thể.
Với Luật Dẫn độ vừa được Quốc Hội cộng sản Việt Nam thông qua, Việt Nam chính thức có một bộ khung pháp lý mới, đầy đủ và rõ ràng hơn để hợp tác quốc tế trong việc dẫn độ tội phạm. Quy định về “giữ người khẩn cấp để dẫn độ” dù là biện pháp tạm thời đã được pháp luật hoá, với điều kiện, trình tự và giám sát chặt chẽ. Việc này có thể cải thiện mạnh mẽ khả năng phối hợp quốc tế, ngăn chặn tội phạm xuyên biên giới, nhưng cũng đặt ra nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, giám sát việc thực hiện để tránh lạm dụng./.
Hơn 2.000 tỷ đồng ủng hộ đồng bào lũ lụt miền Trung, minh bạch vẫn là câu hỏi
Tính đến 17 giờ chiều ngày 25 tháng 11 năm 2025, tổng số tiền đăng ký ủng hộ đồng bào vùng lũ thông qua Ban Vận động cứu trợ Trung ương thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã vượt mốc 2.088,5 tỷ đồng.
Trong đó, có những đóng góp tiêu biểu như việc ông Trần Thanh Lâm — Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương đã trao 450 triệu đồng từ cán bộ, đảng viên và người lao động tại đơn vị tới Ban Vận động cứu trợ, như một biểu hiện kịp thời trước thiệt hại nặng nề do mưa lũ gây ra.
Số liệu thống kê cho thấy khoảng 1,05 triệu người dân và gần 61.000 doanh nghiệp, tổ chức đã tham gia đóng góp. Trong các khoản ủng hộ, có phần được chuyển trực tiếp cho các địa phương chịu thiên tai, có phần gửi về Ban cứu trợ trung ương để phân bổ sau.
Về tiến độ phân bổ, Ban cứu trợ đã tiến hành ít nhất 9 đợt phân phát, với tổng kinh phí khoảng 678,182 tỷ đồng được chuyển về các tài khoản cứu trợ hoặc các Ủy ban Mặt Trận Tổ Quốc của 23 tỉnh, thành bị ảnh hưởng. Các địa phương như Thái Nguyên, Cao Bằng, Quảng Trị, Nghệ An, Hà Tĩnh, Gia Lai… nằm trong số những nơi nhận hỗ trợ.
Theo tuyên bố từ phía Mặt Trận Tổ Quốc, kể từ tháng 10 năm 2025 tới nay, hệ thống Mặt trận các cấp trên toàn Việt Nam đã vận động tổng cộng hơn 3.200 tỷ đồng để hỗ trợ đồng bào bị thiên tai, nghĩa là con số 2.088,5 tỷ đồng chỉ là phần qua kênh trung ương.
Việc huy động lên tới hơn 2.000 tỷ đồng trong thời gian ngắn phản ánh kịp thời tinh thần “tương thân tương ái” và mức độ quan tâm xã hội đối với người dân chịu thiệt hại. Song bên cạnh đó, xuất phát từ thực tiễn các đợt cứu trợ thiên tai trong quá khứ, vẫn tồn tại những lo ngại đáng kể về việc tiền có tới nơi tới chốn hay không.
Thứ nhất, con số 678,182 tỷ đồng được phân bổ qua 9 đợt tới 23 tỉnh, thành chỉ là khoảng 1/ 3 tổng số huy động, tức khoản lớn còn lại vẫn lưu giữ tại trung ương, chưa rõ thời gian và tiến độ giải ngân cụ thể. Nếu không có công khai minh bạch, rất khó đánh giá chính xác mức độ hỗ trợ đến từng hộ dân chịu thiệt hại.
Thứ hai, cơ chế giám sát, kiểm tra việc phân bổ từ trung ương tới địa phương, đặc biệt việc chuyển tiếp từ các ban cứu trợ tới từng hộ dân thường thiếu thông tin công khai chi tiết (ai nhận, nhận bao nhiêu, dùng để làm gì). Điều này càng làm dấy lên nghi ngờ về nguy cơ chậm trễ, hỗ trợ hoặc phân bổ không đều.
Thứ ba, trong bối cảnh thiên tai phức tạp, hậu quả kéo dài, nhà cửa, ruộng đồng, cơ sở hạ tầng bị hư hại, việc khắc phục đòi hỏi không chỉ tiền mặt mà còn cần hỗ trợ kỹ thuật, vật liệu, nhân lực. Nếu nguồn lực tài chính không đi kèm với kế hoạch cụ thể, đồng bộ, hiệu quả giảm thiểu mất mát lâu dài khó được đảm bảo.
Do đó, để đảm bảo rằng số tiền ủng hộ thực sự trở thành nguồn lực phục hồi và tái thiết hiệu quả, cần có hệ thống giám sát minh bạch, công khai chi tiết các đợt phân bổ; kiểm toán xã hội; thông báo cụ thể về từng địa phương, từng hộ thụ hưởng. Chỉ khi đó, lòng hảo tâm cộng đồng mới có thể chuyển hóa thành hành động thiết thực, bền vững cho người dân vùng thiên tai./.
Đề xuất hơn 580.000 tỷ đồng nâng chất lượng giáo dục
Chính Phủ cộng sản Việt Nam vừa chính thức đề xuất với Quốc Hội cộng sản Việt Nam quyết định chủ trương đầu tư của Chương trình Mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo 2026 – 2035, với tổng mức vốn dự kiến khoảng 580.133 tỷ đồng.
Chương trình được thiết kế thực hiện trên toàn quốc trong giai đoạn 2026 – 2035, chia thành hai giai đoạn rõ ràng: giai đoạn đầu từ 2026 –2030, tập trung giải quyết ngay các hạn chế tồn đọng trong hệ thống giáo dục hiện nay; giai đoạn hai từ 2031 – 2035 nhằm tiếp tục phát triển, mở rộng và bền vững hóa các mục tiêu đã đặt ra.
Mục tiêu chung của chương trình là “chuẩn hóa, hiện đại hóa toàn diện hệ thống giáo dục – đào tạo”, tạo bước nhảy căn bản và mạnh mẽ để nâng cao chất lượng, đồng thời mở rộng cơ hội học tập cho mọi người dân, đảm bảo công bằng trong tiếp cận giáo dục và quyền học tập suốt đời. Chương trình cũng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về nhân lực chất lượng cao của đất nước, trong bối cảnh phát triển nhanh, hội nhập quốc tế, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.
Về cơ cấu vốn: trong tổng 580.133 tỉ đồng dự kiến, ngân sách Trung Ương chi khoảng 349.113 tỉ (chiếm khoảng 60,2%), ngân sách địa phương khoảng 115.773 tỉ (gần 20%), phần còn lại gồm vốn đối ứng từ các cơ sở giáo dục, các nguồn huy động hợp pháp khác.
Những mục tiêu cụ thể mà chương trình hướng tới đến năm 2035 bao gồm: xây dựng kiên cố hóa 100% trường, lớp học ở bậc mầm non và phổ thông; đảm bảo tất cả cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông đều có đủ thiết bị dạy học, đủ tiêu chuẩn để triển khai đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong nhà trường.
Bên cạnh đó, chương trình cũng đặt mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: hình thành 6 trung tâm quốc gia và 12 trung tâm vùng đào tạo nhân lực kỹ thuật – công nghệ cao; đầu tư nâng cấp khoảng 8 cơ sở giáo dục đại học công lập trọng điểm để trở thành những trường đại học hàng đầu châu Á và ít nhất 1 trường có cơ hội lọt vào top 100 thế giới ở một số lĩnh vực.
Chính Phủ cộng sản Việt Nam cũng nhấn mạnh việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, điều chỉnh chương trình giảng dạy để phù hợp với xu hướng quốc tế, tích hợp công nghệ, phát triển kỹ năng mềm, tư duy sáng tạo, khoa học, công nghệ.
Trong giai đoạn 2026 – 2030, tổng nguồn lực dự kiến huy động tối thiểu khoảng 174.673 tỉ đồng; giai đoạn 2031–2035 khoảng 405.460 tỉ đồng.
Ngay sau khi đề xuất được trình, Ủy ban Văn hóa & Xã hội của Quốc Hội cộng sản Việt Nam đã cơ bản đồng ý về tính cần thiết của đầu tư cho giáo dục, đồng thời lưu ý cần xem xét kỹ lưỡng tính khả thi của các chỉ tiêu lớn, đặc biệt mục tiêu đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai ở toàn bộ cơ sở mầm non, phổ thông; cũng như làm rõ nguồn vốn đối ứng từ địa phương, nguồn huy động ngoài ngân sách để tránh gây áp lực lớn cho ngân sách Nhà nước.
Về định hướng đầu tư, các lãnh đạo Quốc Hội cộng sản Việt Nam đề nghị ưu tiên các nội dung trọng yếu, tránh phân bổ dàn trải; cần xác định rõ đối tượng ưu tiên, ưu tiên các vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa, nơi cơ sở vật chất đang thiếu thốn, để đảm bảo hiệu quả và công bằng.
Như vậy, với con số khổng lồ lên tới hơn nửa triệu tỷ đồng, chương trình nếu được phê duyệt và thực thi đúng, có thể mang lại bước chuyển biến căn bản cho hệ thống giáo dục Việt Nam từ cơ sở vật chất, cơ hội học tập, chất lượng giáo viên, đến đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp xu thế hội nhập và phát triển.
Tuy nhiên, để đảm bảo các mục tiêu thành hiện thực, cần có kế hoạch rõ ràng, giám sát chặt chẽ, ưu tiên hợp lý, và huy động hiệu quả nguồn lực từ Trung Ương, địa phương, cộng đồng, tư nhân./.
Đề xuất 125.478 tỷ đồng nâng cao sức khỏe nhân dân
Sáng ngày 25 tháng 11 năm 2025, Bộ Y tế Việt Nam chính thức trình Quốc Hội cộng sản Việt Nam tờ trình đầu tư cho Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 – 2035, với tổng kinh phí dự kiến lên tới 125.478 tỷ đồng. Khoản đầu tư được phân bổ làm hai giai đoạn: giai đoạn 2026 – 2030 sẽ sử dụng khoảng 88.635 tỷ đồng (trong đó ngân sách Trung Ương 68.000 tỷ, địa phương 20.041 tỷ, và các nguồn hợp pháp khác), còn giai đoạn 2031–2035 dự kiến sử dụng 36.843 tỷ đồng.
Theo đề xuất từ Bộ Y Tế, chương trình hướng tới mục tiêu tổng quát là nâng cao sức khỏe thể chất và tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của người dân; đảm bảo mọi người dân đều được quản lý và chăm sóc y tế ban đầu chất lượng; thúc đẩy phòng bệnh, phát hiện sớm, điều trị ngay từ cơ sở; đồng thời quan tâm đặc biệt đối với các nhóm dễ bị tổn thương như người dân ở vùng sâu vùng xa, người nghèo, người cao tuổi, trẻ em, phụ nữ mang thai, người lao động di cư…
Chương trình bao gồm 5 dự án thành phần chính: tăng cường năng lực y tế cơ sở; nâng cao hiệu quả hệ thống phòng bệnh và chăm sóc sức khỏe; thực hiện các chính sách dân số và phát triển; phát triển dịch vụ chăm sóc xã hội cho nhóm yếu thế; và truyền thông y tế, quản lý, giám sát thực hiện chương trình.
Trong các mục tiêu cụ thể, chương trình đặt ra một số chỉ tiêu then chốt: đến năm 2030 có 90% xã, phường, đặc khu trên cả nước đạt “tiêu chí quốc gia về y tế xã/phường”; 100% người dân có hồ sơ sức khỏe điện tử và được quản lý sức khỏe theo vòng đời; tất cả trạm y tế xã/ phường, đặc khu có khả năng phát hiện, xét nghiệm dịch bệnh; 100% trạm y tế thực hiện quản lý, điều trị bệnh không lây theo quy trình; giảm tỉ lệ trẻ còi cọc dưới 5 tuổi xuống dưới 15% vào 2030 (và dưới 13% vào 2035); nâng cao tỉ lệ tiếp cận thông tin y tế, truyền thông sức khỏe; cải thiện công tác chăm sóc sức khỏe trước khi kết hôn, tiền sinh sản, sàng lọc trước sinh với mục tiêu cao hơn vào 2035.
Bên cạnh đó, chương trình cũng nhấn mạnh mục tiêu đổi mới cách tiếp cận y tế từ chữa bệnh sang chăm sóc toàn diện: phòng bệnh, khám sàng lọc định kỳ, quản lý sức khỏe đặc biệt tại tuyến cơ sở, phù hợp với xu hướng dịch bệnh mới, già hóa dân số và các thách thức về sức khỏe cộng đồng.
Về phạm vi đối tượng thụ hưởng, chương trình nhắm đến “mọi người dân Việt Nam”, song ưu tiên cao hơn cho các nhóm dễ bị tổn thương: người nghèo, người dân vùng khó khăn, đồng bào ở miền núi, hải đảo, người cao tuổi, phụ nữ, trẻ em, phụ nữ mang thai, người lao động, di dân, công nhân vùng công nghiệp nhằm thu hẹp khoảng cách về chăm sóc y tế.
Chính Phủ cộng sản Việt Nam và Ủy ban Văn hóa — Xã hội của Quốc Hội nhìn chung ủng hộ đề xuất này, coi đây là cách để cụ thể hóa chủ trương nâng cao chất lượng đời sống, chăm sóc sức khỏe toàn dân, bảo đảm y tế cơ bản, đồng thời xử lý những bất cập hiện tại trong hệ thống y tế, đặc biệt tại tuyến cơ sở và vùng khó khăn.
Tuy nhiên, nhìn kỹ vào đề xuất, vẫn có những nút thắt cần lưu ý để đảm bảo hiệu quả thực thi. Việc huy động nguồn lực lớn với 125.478 tỷ đồng đòi hỏi phân bổ ngân sách trung ương và địa phương hợp lý, tránh áp lực quá lớn lên ngân sách địa phương, nhất là ở những tỉnh nghèo, miền núi nơi mà phần vốn từ địa phương có thể rất hạn chế.
Bên cạnh đó, việc tổ chức thực hiện yêu cầu sự phối hợp đồng bộ giữa trung ương và địa phương, giải quyết bất bình đẳng về hạ tầng y tế, nhân lực, điều kiện sinh hoạt, đời sống. Các đại biểu Quốc Hội cũng lưu ý không để chương trình “dàn trải”, mà cần xác định rõ ưu tiên, mục tiêu trọng điểm, tránh trùng lắp với các chương trình, chính sách khác đã có ngân sách hoặc nguồn lực.
Nếu thực hiện đúng theo đề xuất, chương trình có thể mang lại bước tiến lớn cho hệ thống y tế nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu, giảm tải bệnh tật, cải thiện tầm vóc, tuổi thọ, sức khỏe cộng đồng, phù hợp với xu hướng già hóa dân số, nhu cầu y tế ngày càng cao; đồng thời góp phần cân bằng cơ hội tiếp cận chăm sóc y tế giữa vùng thuận lợi và vùng khó khăn.
Đề xuất chi 125.478 tỷ đồng cho y tế 2026 – 2035 nếu được thông qua và triển khai nghiêm túc, với cơ chế giám sát, phân bổ hợp lý và phối hợp liên ngành có thể trở thành bước ngoặt trong việc cải thiện sức khỏe nhân dân, nâng cao chất lượng cuộc sống, hướng tới một xã hội Việt Nam lành mạnh và bền vững./.
Thủ phủ tôm hùm miền Trung chìm trong thảm họa lũ
Vịnh Xuân Đài — khu vực được xem như “thủ phủ tôm hùm” miền Trung Việt Nam, thuộc phường Sông Cầu (nay thuộc tỉnh Đắk Lắk, trước đây thuộc Phú Yên) đang trải qua trận thảm họa lớn nhất kể từ khi nghề nuôi tôm hùm phát triển mạnh tại đây. Theo các báo cáo mới nhất từ chính quyền địa phương, mưa lũ những ngày vừa qua đã cuốn trôi, nhấn chìm hàng chục nghìn lồng nuôi tôm hùm, ước tính tổng thiệt hại lên tới hơn 3.000 tỷ đồng.
Sự việc bắt đầu khi lượng nước từ thủy điện ở thượng nguồn đổ về kèm mưa lớn khiến mực nước vịnh dâng nhanh, tạo dòng chảy mạnh bất thường. Nhiều hộ nuôi dù đã hạ lồng xuống đáy, neo chằng kỹ lưỡng vẫn không thể thoát: nước ngọt hòa vào môi trường nước mặn, khiến tôm bị sốc đột ngột. Kết quả, tỉ lệ tôm chết được các hộ nuôi, chính quyền ghi nhận ở mức rất cao — khoảng 80% – 90 %.
Chia sẻ với truyền thông Tuổi Trẻ, chị Đỗ Thị Minh Ly, một người nuôi tôm lâu năm tại Sông Cầu, rơm rớm: vợ chồng chị thả hơn 20 lồng tôm, toàn bộ đã chết, khoảnh mồi vừa từ biển trở về, giờ chỉ còn thùng xốp trống trải, tôm hùm xanh, tôm bông sống sót chỉ đếm trên đầu ngón tay. Giá tôm sau lũ rớt thê thảm, rớt xuống khoảng 150.000 đồng/ kg, thấp hơn rất nhiều so với mức hòa vốn, khiến bà con “bán trong nước mắt”, cố gắng vớt vát chút vốn.
Không chỉ hộ nhỏ lẻ, nhiều hộ nuôi vốn lớn vốn tự tin vào nghề tôm hùm cũng bị “xóa sổ”. Một hộ nuôi 30 lồng tôm đã sắp thu hoạch, trị giá cả tỉ đồng sau lũ chỉ còn vỏn vẹn vài lồng sống sót. Hàng trăm hộ nuôi lớn, nhỏ lâm vào cảnh trắng tay, nợ nần chồng chất.
Theo thống kê sơ bộ từ chính quyền phường Sông Cầu và phường Xuân Đài: trong tổng khoảng 92.000 lồng nuôi tại vùng, có hơn 77.000 bị chết chiếm khoảng 80 – 90% tổng lồng; riêng phường Xuân Đài có tới 430 trên 536 hộ nuôi bị thiệt hại nặng, tương đương khoảng 610 tỷ đồng thiệt hại ở địa bàn này; cộng dồn với các khu vực khác, tổng giá trị thiệt hại ước tính vượt 3.000 tỷ đồng.
Nhiều người dân hiện đang đứng trước nguy cơ phá sản: vốn đầu tư vào thức ăn, con giống, công chăm nuôi tích lũy nhiều năm giờ tan biến. Một số hộ cho biết nếu không được hỗ trợ tái sản xuất hoặc giãn nợ, họ khó có thể tiếp tục nghề nuôi tôm.
Khung cảnh vịnh Xuân Đài sau lũ: bè nuôi trơ trọi, tàu ghe neo đậu không người, người dân thất thần nhìn ra mặt đầm, nơi từng là biểu tượng của “giấc mơ tôm hùm” giờ chìm trong hoang tàn, u ám.
Thảm cảnh tại Sông Cầu không chỉ là thiệt hại về kinh tế, mà còn là cú sốc lớn đối với sinh kế hàng nghìn hộ dân, đứt gãy chuỗi sản xuất thủy sản quy mô lớn, tác động lan rộng đến đời sống, việc làm, niềm tin vào nghề nuôi biển vốn từng được xem là “miếng bánh” hấp dẫn.
Với con số hơn 3.000 tỉ đồng bị “nhấn chìm” cùng hàng chục ngàn lồng tôm bị chết, Vịnh Xuân Đài — nơi từng tạo ra hàng loạt “tỷ phú tôm hùm” giờ phải đối mặt với nguy cơ nghề nuôi tôm hùm bị xóa sổ.
Qua vụ việc, cần nhìn nhận rõ: nghề nuôi thủy sản, đặc biệt nuôi biển luôn gắn chặt với rủi ro thiên tai. Khi biến đổi khí hậu, bão lũ ngày càng khốc liệt, việc phát triển nuôi thủy sản biển cần đi kèm với các biện pháp phòng chống thiên tai nghiêm ngặt, phương án thiên tai, bảo hiểm thủy sản, và hỗ trợ người dân phục hồi sau thiên tai. Nếu không, những “giấc mơ giàu lên từ biển” sẽ dễ dàng trở thành nợ nần, đau thương./.
HIV tại Việt Nam bước sang giai đoạn lây nhiễm mới
Năm 2024, Việt Nam ghi nhận 13.351 ca nhiễm HIV mới và 1.905 ca tử vong do AIDS, con số này được Bộ Y tế Việt Nam công bố tại lễ phát động “Tháng hành động quốc gia phòng, chống HIV/AIDS 2025”. Dù nhiều năm qua hệ thống y tế đã nỗ lực mạnh mẽ, dịch HIV vẫn chứng tỏ khả năng lan rộng và biến chuyển phức tạp, đòi hỏi các chính sách và biện pháp phù hợp hơn với thực tế.
Một thay đổi nổi bật, và được các chuyên gia nhấn mạnh, là sự dịch chuyển rõ rệt của đường lây nhiễm. Theo Phó Cục trưởng Cục Phòng bệnh (Bộ Y tế) Nguyễn Lương Tâm, lây truyền qua đường tình dục hiện chiếm trên 80% các ca mới. Trong số đó, phần lớn là nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới và người chuyển giới khác với trước đây, khi lây truyền qua đường máu (tiêm chích ma túy, truyền máu) hay từ mẹ sang con chiếm tỷ trọng cao.
Thực tế cho thấy từ khoảng năm 2010 đến nay, hình thái lây nhiễm HIV đã có sự thay đổi căn bản: lây qua đường máu và lây từ mẹ sang con giảm mạnh, trong khi quan hệ tình dục trở thành con đường chính. Cơ cấu đối tượng cũng thay đổi, từ gái mại dâm, nhóm có hành vi rủi ro cao, sang nhóm nam quan hệ đồng giới và người chuyển giới.
Số liệu phân theo khu vực cũng cho thấy sự bùng phát mạnh tại những vùng đô thị và khu vực có mật độ cao: hơn 68% ca nhiễm mới tập trung tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và thành phố Thành phố Sài Gòn. Độ tuổi người nhiễm mới chủ yếu dao động trong khoảng 15– 29 tuổi, 30 – 39 tuổi, và trên 80% ca mới là nam giới.
Bối cảnh này khiến công tác phòng, chống HIV/ AIDS bước sang một giai đoạn mới, không chỉ là kiểm soát lây qua đường máu hay mẹ-con, mà cần tập trung vào phòng lây qua quan hệ tình dục, đặc biệt trong nhóm dân số dễ bị tổn thương hoặc có hành vi rủi ro cao. Theo Bộ Y tế Việt Nam, để ứng phó, nhà nước đã thúc đẩy nhiều hoạt động: xét nghiệm sàng lọc rộng rãi (hàng triệu mẫu mỗi năm), mở rộng điều trị ARV cho người nhiễm, thúc đẩy điều trị nghiện cho người tiêm chích ma túy, cũng như các biện pháp dự phòng mới (PrEP) cho người nguy cơ cao.
Thế nhưng, theo nhận định từ cơ quan y tế, vẫn còn nhiều thách thức trước mắt. Mặc dù dịch lây chủ yếu qua quan hệ tình dục, phần lớn người nhiễm thuộc nhóm nam quan hệ đồng giới hoặc người chuyển giới nhóm vốn dễ chịu kỳ thị, phân biệt nên việc họ tiếp cận dịch vụ y tế, xét nghiệm, điều trị hoặc dự phòng vẫn gặp nhiều rào cản.
Thêm vào đó, mặc dù Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ, mục tiêu 95 – 95 – 95 toàn cầu (95% người nhiễm biết tình trạng, 95% được điều trị, 95% đạt tải lượng virus ức chế) vẫn chưa hoàn toàn đạt được.
Nhìn chung, HIV/AIDS tại Việt Nam đang bước vào giai đoạn “thay mặt trận”, từ những con đường lây nhiễm cũ sang những kiểu lây nhiễm mới, từ đối tượng cũ sang các nhóm dễ bị tổn thương hơn. Điều này đòi hỏi không chỉ y tế, mà xã hội — truyền thông, giáo dục, chính sách — cần thích ứng nhanh, đồng bộ và bền vững hơn./.
Báo chí chuyên nghiệp và áp lực từ nền tảng số
Trong phiên thảo luận tại kỳ họp của Quốc Hội cộng sản Việt Nam vào chiều ngày 24 tháng 11 năm 2025 về dự thảo sửa đổi Luật Báo chí Việt Nam, một đề xuất thu hút sự chú ý mạnh là yêu cầu các “nền tảng số” gồm mạng xã hội, trang tin tổng hợp phải chia sẻ doanh thu với các cơ quan báo chí khi sử dụng nội dung, thông tin gốc từ báo chí để tái đăng hoặc khai thác.
Lý do được nêu ra bởi đại biểu Trịnh Thị Tú Anh rằng hiện nay, nhiều nền tảng không phải là cơ quan báo chí “sống khỏe” nhờ tái sử dụng, cắt dán nội dung từ báo chính thống, đôi khi chỉ cần vài nhân viên vận hành kỹ thuật, nhưng doanh thu quảng cáo lại cao hơn nhiều so với báo gốc. Việc tái đăng, trích dẫn lại “miễn phí” làm xói mòn nguồn thu của báo chí chuyên nghiệp, khiến các tòa soạn đối diện với áp lực kinh tế nghiêm trọng.
Cụ thể, theo phản ánh của các cơ quan báo chí, nền tảng số và mạng xã hội hiện chiếm phần lớn quảng cáo trên môi trường trực tuyến khoảng từ 50 ‑ 70% doanh thu quảng cáo từng thuộc về báo chí cũ đã bị chảy sang các nền tảng này. Thực tế sụt giảm nguồn thu khiến nhiều tòa soạn gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động, làm báo chất lượng, trả lương phóng viên từ đó ảnh hưởng tới chất lượng thông tin, đa dạng báo chí và cả tự do báo chí trong dài hạn.
Dự thảo luật sửa đổi vì thế được đề xuất bổ sung nghĩa vụ: nếu một nền tảng số sử dụng tin – bài, nội dung sản xuất bởi cơ quan báo chí để đăng lại, trích dẫn hoặc tổng hợp, và thu lợi tức từ quảng cáo/ tiếp thị dựa trên nội dung đó, thì phải chia sẻ một phần doanh thu với cơ quan báo chí gốc.
Những người ủng hộ lập luận rằng quy định này không chỉ bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả đối với sản phẩm báo chí mà còn giúp duy trì mô hình báo chí chuyên nghiệp, dùng doanh thu để nuôi sống phóng viên, biên tập viên, bảo đảm điều kiện để tạo ra tin gốc, điều tra, phân tích điều mà các nền tảng tự tổng hợp khó thay thế.
Tuy nhiên, bên cạnh sự ủng hộ, có các ý kiến còn băn khoăn về tính khả thi của quy định. Việc xác định thế nào là “sử dụng nội dung báo chí để thu lợi” tổng hợp, trích dẫn, dẫn link có thể rất mơ hồ. Nếu quy định quá rộng, có thể ảnh hưởng tới việc chia sẻ thông tin, tự do thông tin, báo chí công dân, blog cá nhân…; nếu quá hẹp, lại dễ bị các nền tảng lách luật hoặc tiếp tục khai thác không chia sẻ doanh thu.
Một điểm khác là vấn đề giám sát và thực thi: cần có cơ chế minh bạch để kiểm kê doanh thu của nền tảng số, phân biệt doanh thu từ nội dung báo chí và doanh thu từ nội dung khác, và đảm bảo quy trình chia sẻ thực sự tới tay các cơ quan báo chí điều không hề dễ trong môi trường số phức tạp hiện nay.
Dưới góc nhìn xã hội, đề xuất phản ánh một cuộc chuyển đổi mạnh mẽ trong quan hệ giữa báo chí truyền thống và nền tảng số từ thời báo giấy, báo điện tử độc quyền phân phối nội dung, sang thời chia sẻ nội dung rộng rãi, lan tỏa nhanh nhưng cũng tạo áp lực kinh tế nặng nề cho báo chí chuyên nghiệp. Nếu được luật hóa và thực thi nghiêm túc, đây có thể là bước đi quan trọng để bảo vệ nghề báo, bảo đảm báo chí chất lượng, và giữ vững tính công bằng trong hệ sinh thái truyền thông số.
Nhưng nếu không cân nhắc kỹ dễ xảy ra việc kiểm soát ngặt ngèo, ràng buộc quá mức, có thể bóp nghẹt tự do thông tin, khiến cộng đồng dân cư, độc giả bị hạn chế quyền tiếp cận thông tin đa dạng./.
NGƯỜI QUAN SÁT



