Bức ảnh nổi tiếng về chiến tranh Việt Nam hiện đang là tâm điểm của tranh cãi sau khi một bộ phim tài liệu tuyên bố rằng nó được chụp bởi người khác không phải Nick Út.
Một bài báo của bài báo của tác giả Adrian Horton đăng trên Báo The Guardian Thứ Sáu, ngày 16 tháng 5 năm 2025 đã loan tin rằng tổ chức World Press Photo đã đình chỉ việc ghi nhận tác giả của một trong những bức ảnh báo chí nổi tiếng nhất từng được chụp, sau khi một bộ phim tài liệu mới thách thức 50 năm lịch sử báo chí đã được chấp nhận.
Bức ảnh, chính thức có tên là “The Terror of War” nhưng thường được gọi là “Cô bé Napalm”, vẫn là một trong những hình ảnh không thể phai mờ của cuộc chiến tranh Mỹ tại Việt Nam. Kể từ khi được công bố vào tháng 6 năm 1972, nó đã được chính thức ghi nhận là do Nick Ut chụp, một nhiếp ảnh gia người Việt làm việc cho Associated Press tại Sài Gòn.
Associated Press và Ut từ lâu đã khẳng định rằng Ut, khi đó 21 tuổi, đã chụp bức ảnh này, bức ảnh sau đó đã giành giải thưởng World Press Photo of the Year vào năm 1973 và thiết lập Ut như một nhà báo ảnh đáng kính.
Tuy nhiên, một bộ phim tài liệu gần đây đã thách thức lịch sử đó, thay vào đó đề xuất rằng bức ảnh, mô tả một cô bé 9 tuổi tên là Phan Thị Kim Phúc đang chạy trốn khỏi một cuộc tấn công bằng napalm tại làng Trảng Bàng ở miền Nam Việt Nam, được chụp bởi một người tên là Nguyễn Thành Nghệ. “The Stringer”, được công chiếu tại liên hoan phim Sundance vào tháng 1, tuyên bố rằng Nghệ, một cộng tác viên cho NBC, người đã lái xe vào ngày hôm đó và thường bán ảnh cho AP trên cơ sở tự do, đã bị từ chối ghi nhận vì anh không phải là nhân viên của AP.
Bộ phim đã thúc đẩy “sự suy ngẫm sâu sắc” tại World Press Photo, tổ chức đã tiến hành cuộc điều tra riêng của mình, kết quả được công bố vào thứ Sáu, ngày 16 tháng 5. Phân tích nội bộ, được thực hiện từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2025, kết luận “dựa trên phân tích về vị trí, khoảng cách và máy ảnh được sử dụng vào ngày hôm đó” rằng “các nhiếp ảnh gia Nguyễn Thành Nghệ hoặc Huỳnh Công Phúc có thể đã ở vị trí tốt hơn để chụp bức ảnh hơn là Nick Ut.”
Việc đình chỉ chỉ áp dụng cho việc ghi nhận tác giả của bức ảnh, và không hủy bỏ giải thưởng Ảnh của năm 1973. “Bản thân bức ảnh vẫn không bị tranh cãi,” nhóm cho biết, “và giải thưởng World Press Photo cho bức ảnh quan trọng này của một khoảnh khắc lớn trong lịch sử thế kỷ 20 vẫn là một thực tế.”
“Dựa trên những phát hiện này và theo các giá trị về độ chính xác, độ tin cậy và sự đa dạng của chúng tôi, chúng tôi rút ra kết luận liên quan đến việc ghi nhận,” Joumana El Zein Khoury, giám đốc điều hành của nhóm, cho biết trong một thông cáo báo chí. “Điều quan trọng là phải nói rằng bản thân bức ảnh không bị tranh cãi và không nghi ngờ gì rằng bức ảnh này đại diện cho một khoảnh khắc thực sự trong lịch sử tiếp tục vang vọng ở Việt Nam, Hoa Kỳ và trên toàn cầu.”
Đầu tháng này, Associated Press thông báo rằng họ không tìm thấy “bằng chứng dứt khoát” để thay đổi việc ghi nhận tác giả của bức ảnh, và đã phát hành một báo cáo dài 96 trang về vấn đề này – báo cáo thứ hai trong vòng bốn tháng – dựa trên cuộc điều tra nội bộ của họ. AP kết luận rằng “có thể” Ut đã chụp bức ảnh, và không tìm thấy bằng chứng nào cho thấy Nguyễn đã chụp nó thay vào đó. Vấn đề không thể được chứng minh một cách dứt khoát, họ nói thêm, do thời gian trôi qua, sự thiếu vắng bằng chứng quan trọng, những hạn chế của công nghệ và cái chết của một số người liên quan quan trọng.
“Chúng tôi không bỏ sót điều gì mà chúng tôi biết và chúng tôi đã làm điều đó với rất nhiều sự tôn trọng đối với tất cả những người liên quan,” Derl McCrudden, phó chủ tịch sản xuất tin tức toàn cầu của AP, cho biết trong một tuyên bố. “Việc chúng tôi thay đổi ghi nhận không quan trọng, nhưng nó phải dựa trên sự thật và bằng chứng. Và không có bằng chứng dứt khoát nào chứng minh rằng Nick Ut không chụp bức ảnh này.”
“The Stringer”, do Bảo Nguyễn đạo diễn, đã mời một số nhân chứng để lập luận rằng Nghệ đã bán bức ảnh cho trưởng bộ phận ảnh của văn phòng AP tại Sài Gòn, Horst Faas, với giá 20 đô la và một bản in, bao gồm anh trai của Nghệ, người tuyên bố đã mang cuộn phim đến AP; con gái của Nghệ, Jannie; Carl Robinson, một biên tập viên ảnh lâu năm của AP tại Sài Gòn, người đầu tiên liên hệ với các nhà làm phim; và một số đồng nghiệp cũ của Robinson. Các nhà điều tra cũng đã tham khảo ý kiến của các chuyên gia pháp y từ tổ chức phi chính phủ Pháp Index, những người cho rằng “rất không có khả năng” Ut đã chụp bức ảnh dựa trên các hình ảnh khác mà AP ghi nhận cho anh ta vào ngày hôm đó.
AP đã tiến hành cuộc điều tra pháp y riêng của mình bao gồm các cuộc phỏng vấn bổ sung, kiểm tra máy ảnh và các âm bản còn lại từ ngày hôm đó, và một mô hình 3D của hiện trường. Báo cáo kết quả tiết lộ “sự không nhất quán ở cả hai bên” nhưng kết luận rằng việc tin vào câu chuyện của Nghệ sẽ “đòi hỏi một số bước nhảy vọt về niềm tin”, chẳng hạn như tin rằng lần duy nhất anh ta bán ảnh cho một hãng tin phương Tây, đó lại là một trong những hình ảnh nổi tiếng nhất của thế kỷ 20.
Nghệ, người đã xuất hiện bất ngờ tại buổi công chiếu “The Stringer” tại Sundance, xác nhận câu chuyện của mình trong phim. Trong khi đó, Ut tiếp tục khẳng định quyền tác giả của mình và nói với AP rằng tranh chấp này “rất khó khăn đối với tôi và đã gây ra nỗi đau lớn.
Ông Nguyễn Thành Nghệ nói gì sau hơn 50 năm im lặng?

Ông Nguyễn Thành Nghệ, nhân vật chính trong phim tài liệu The Stringer, tiết lộ về quá trình mà ông được cho là đã chụp bức ảnh Em bé Napalm.
Trong diễn biến mới nhất, vào ngày 16/5, tổ chức World Press Photo (Giải Ảnh Báo chí Thế giới, WWP) đã thông báo tạm ngừng ghi tên tác giả của bức ảnh The Terror of War (Nỗi kinh hoàng chiến tranh) hay còn được biết đến với tên gọi Em bé Napalm.
Theo World Press Photo, quyết định mới của họ được đưa ra sau một cuộc phân tích độc lập, sau khi phim tài liệu The Stringer khẳng định ông Nguyễn Thành Nghệ là tác giả bức ảnh trên, chứ không phải ông Nick Út như được biết đến lâu nay.
Phim tài liệu The Stringer do tổ chức The VII Foundation của nhiếp ảnh gia Gary Knight sản xuất và do Bảo Nguyễn làm đạo diễn, ra mắt vào tháng 1/2025.
Để thực hiện phim và đi đến kết luận chấn động nói trên, đạo diễn Bảo Nguyễn và nhiếp ảnh gia Gary Knight đã phỏng vấn 55 nhân chứng, kết hợp với kết quả giám định độc lập từ tổ chức INDEX có trụ sở tại Paris, Pháp.
Chia sẻ với BBC sau quyết định của WWP, ông Nghệ bày tỏ:
“Tôi rất xúc động và muốn khóc. Tôi vô cùng biết ơn vì World Press Photo tin tưởng và đứng về phía sự thật.”
Cần lưu ý, trong thông báo ngày 16/5, WPP quyết định ngưng ghi tên tác giả Nick Út đối với bức ảnh này, nhưng không khẳng định chắc chắn ông Nghệ là tác giả. Kết luận mà tổ chức này đưa ra là: “Nếu chỉ xét giữa Út và Nghệ thì các bằng chứng hình ảnh và kỹ thuật hiện có nghiêng về phía Nghệ.”

Ông Nghệ mô tả việc chụp bức ảnh như thế nào?
Bức ảnh Em bé Napalm chụp khoảnh khắc bé gái Kim Phúc khi đó chín tuổi trong tình trạng không áo quần, vừa chạy vừa khóc sau một vụ đánh bom napalm tại Trảng Bàng, Tây Ninh vào ngày 8/6/1972.
Bức ảnh đã giúp Nick Út – phóng viên ảnh của AP – giành giải Pulitzer và World Press Photo vào năm 1973. Từ đó, tên tuổi ông vang danh thế giới.
Từ khi bức ảnh ra đời, hãng tin AP đã luôn ghi nhận tác quyền thuộc về ông Nick Út.
Tuy nhiên, đã có những tranh cãi xoay quanh tác giả thực sự của bức ảnh, ngay cả trước khi phim The Stringer công chiếu vào ngày 25/1/2025.
Cụ thể, từ năm 2022 – nhân dịp kỷ niệm 50 năm bức ảnh ra đời – ông Carl Robinson, biên tập viên ảnh của AP tại Sài Gòn vào đúng ngày bức ảnh được chụp, đã công khai tuyên bố rằng Nick Út không phải là tác giả của bức ảnh.
Từ câu chuyện của ông Robinson, nhiếp ảnh gia Gary Knight và đạo diễn phim Bảo Nguyễn đã tiến hành các cuộc điều tra để cho ra đời phim The Stringer.
Sau khi phỏng vấn nhân chứng và sử dụng kết quả giám định của INDEX, phim đưa ra kết luận rằng Nick Út không ở đủ gần hiện trường để bắt khoảnh khắc lịch sử này.
Thay vào đó, ông Nguyễn Thành Nghệ, hiện đã 87 tuổi, mới là tác giả bức ảnh.
Có nhiều thông tin nói ông Nghệ là một tài xế cho hãng NBC News nên việc ông chụp được bức ảnh là điều khó tin.
Ông Nghệ trong cuộc phỏng vấn độc quyền với BBC ngày 17/5 qua email đã giải thích rằng ông không phải là lái xe làm việc cho NBC mà là một phóng viên tự do, đi cùng anh rể là Trần Văn Thân – người làm việc cho NBC.
Vào ngày 8/6/1972, ông nghe nói có chuyện gì đó đang xảy ra ở Trảng Bàng mà NBC News khi ấy đang không có tài xế trong khi ông có bằng lái nên đã tình nguyện chở nhóm phóng viên đến hiện trường. Ông nói với BBC rằng hôm đó ông mang theo duy nhất một chiếc máy ảnh Pentax.
Trong báo cáo thứ hai của AP vào tháng 5 đưa ra kết luận rằng nhiều khả năng – dù chưa thể chắc chắn tuyệt đối – bức ảnh này đã được chụp bằng một chiếc máy ảnh Pentax và khó có khả năng chụp bằng Leica.
“Khi đến nơi, chúng tôi đậu xe rồi đi bộ trên con đường dẫn đến tòa thánh Cao Đài. Chỉ vài phút sau, tôi thấy một chiếc máy bay nhỏ lượn vòng vòng khảo sát khu vực, rồi rời đi.
“Và chừng vài phút sau đó, tôi thấy hai chiếc máy bay màu đen, tôi không nhớ rõ tên, nhưng là loại thường dùng để thả bom, bay rất nhanh. Tôi nói với mọi người rằng sắp có việc để làm rồi, hãy chuẩn bị tinh thần. Tôi thấy nó thả hai quả bom.
“Lúc đó, tôi đang đứng rất gần chỗ mà tôi chụp bức ảnh. Tôi thấy khói bốc lên và liền chạy tới. Rồi tôi thấy một bé gái không mặc gì, những binh lính chạy ra, thế là tôi giơ máy ảnh lên và chụp một loạt ảnh.
“Có cả trẻ em, lính, dân thường chạy ra, mọi thứ diễn ra chỉ trong vài giây. Tôi ở lại đó thêm khoảng năm phút nữa, cho đến khi chụp hết cuộn phim,” ông Nghệ kể lại với BBC.

Ông giải thích thêm về công việc của mình: “Tôi đã làm việc trong lĩnh vực điện ảnh từ lâu. Tôi từng học trường quay phim ở Sài Gòn, làm việc cho một studio nhiếp ảnh tại Sài Gòn với vai trò nhiếp ảnh gia và người chỉnh sửa ảnh.”
“Khi còn trong quân đội, tôi được cử sang Mỹ học nhiếp ảnh ở New Jersey vào năm 1961 trong vòng sáu tháng. Tôi là một nhiếp ảnh gia được huấn luyện bài bản trong quân đội.”
Ông nói thêm rằng ông biết ơn đội ngũ làm phim, gồm ông Gary Knight và những nhà báo đã tìm kiếm ông sau nửa thế kỷ.
“Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình còn sống để chứng kiến ngày hôm nay,” ông nói.
Đã có nhiều người đặt ra câu hỏi vì sao ông Nghệ lại im lặng suốt hơn 50 năm, cho tới gần đây mới lên tiếng. Trong một cuộc phỏng vấn với BBC News Tiếng Việt, ông Nguyễn Thành Nghệ bày tỏ như sau:
“Tôi chưa bao giờ tuyên bố mình là tác giả vì tôi biết không có cách nào để đòi lại công bằng cho bản thân. Tôi không có bằng chứng trong tay, rồi ai sẽ tin tôi. Chiến tranh kết thúc, gia đình tôi sang Mỹ và đối với tôi lúc đó, sự an toàn của gia đình là trên hết.
“Không có gì quan trọng hơn sự thật. Chúng ta học từ chính sai lầm của mình để không phạm phải lần nữa. Tôi đã im lặng, không có tiếng nói, bất an và đau khổ, những cảm xúc bị dồn nén.
“Câu chuyện của tôi đã bị lãng quên, cho đến khi Gary Knight tìm thấy tôi.”
Hành trình đi tìm ‘The Stringer’

Ông Gary Knight, cựu nhiếp ảnh gia chiến tranh, người đứng đầu VII Foundation – tổ chức phi lợi nhuận chuyên đào tạo nhà báo từ các quốc gia đang phát triển – nói với BBC như sau:
“The Stringer kể lại hành trình điều tra mà nhóm phóng viên của chúng tôi thực hiện, qua góc nhìn của đạo diễn người Mỹ gốc Việt – Bảo Nguyễn. Tôi không thể nói quá nhiều – vì dĩ nhiên chúng tôi muốn mọi người có cơ hội xem phim mà không tiết lộ hết các chi tiết – cuộc điều tra bao gồm việc hợp tác với INDEX, một tổ chức chuyên về công nghệ nguồn mở và kỹ thuật điều tra giám định, để phân tích các thông tin sẵn có.
“Phim đặt ra những câu hỏi khó về báo chí và chúng tôi biết nó sẽ khiến nhiều đồng nghiệp nhà báo khó chịu, nhưng nhà báo vốn là những người cần đặt ra câu hỏi dù vấn đề có khó chịu đi chăng nữa.”
Trước khi bộ phim The Stringer được quay, hành trình tìm kiếm ông Nguyễn Thành Nghệ đã bắt đầu từ năm 2022.
Ông Carl Robinson – biên tập ảnh của hãng AP vào hôm bức ảnh được chụp – chia sẻ với BBC rằng ông muốn tìm lại ông Nguyễn Thành Nghệ để nói lời xin lỗi, dù muộn màng, vì chính ông đã ghi tên tác giả bức ảnh là Nick Út theo yêu cầu của cấp trên mình là ông Horst Faas – trưởng văn phòng AP tại Sài Gòn vào thời điểm đó.
“Vào dịp kỷ niệm 50 năm bức ảnh ấy, năm 2022, cả thế giới chứng kiến Nick Út và Kim Phúc gặp Giáo hoàng Francis, rồi bao nhiêu sự chú ý đổ dồn, bao nhiêu sự tung hô. Cuối cùng, tôi quyết định rằng mình thực sự phải trở lại đối mặt với tất cả chuyện này, không thể cứ mãi quay lưng và quên đi được.
“Chính khi đó tôi tìm thấy bức ảnh của Nghệ. Tôi biết mình không thể chống lại cả cỗ máy truyền thông ấy. Nhưng điều tôi muốn chỉ là tìm được Nghệ,” ông Robinson kể lại.
Khi bắt đầu việc tìm kiếm, ông Robinson chỉ biết được tên ông Nghệ qua cựu phóng viên ảnh của AP Đặng Văn Phước, biết ông Nghệ đã tị nạn ở Mỹ, đã ly dị và rồi quay về sống Việt Nam.
Sau đó, nhờ sự giúp đỡ của hai nhà báo Việt Nam là Ngọc Vinh và Lê Vân, cuối cùng ông Nghệ cũng được tìm thấy. Thế nhưng, qua ngày hôm sau, ông Nghệ bị đột quỵ và phải cấp cứu ở bệnh viện Cần Thơ.
“Khi đó, tôi đã chuẩn bị tinh thần dự đám tang, ít nhất tôi sẽ đặt vào quan tài của Nghệ bức ảnh Em bé Napalm, nơi mà nó vốn thuộc về.”

Sau cùng, ông Nghệ đã vượt qua cơn nguy kịch. Trên chiếc xe lăn được đẩy ra từ phòng bệnh, ông Nghệ đã gặp ông Robinson. Lúc bấy giờ là tháng 4/2023.
“Tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc khi gặp được Nghệ. Ông ấy vừa qua cơn đột quỵ, khi đó tôi cố gắng từ từ giải thích mọi chuyện với ông ấy. Khi đó Nghệ hỏi tôi rằng: ‘Sao mãi bây giờ ông mới tìm đến tôi?’
“Ông ấy như tấm gương phản chiếu chính tôi. Vợ tôi, Kim Dung, bao năm qua vẫn khuyên tôi rằng: ‘Hãy quên đi. Anh không thể làm gì được đâu.’ Và có lẽ Nghệ cũng phải sống với điều đó, ông ấy có thể lại lẩm bẩm về bức hình. Các con ông có thể nói: ‘Ba à, hãy quên chuyện đó đi.’
“Nên khi chúng tôi gặp nhau trong bệnh viện ở Cần Thơ, chúng tôi như hai tấm gương phản chiếu cuộc đời nhau. Tìm thấy nhau. Đó thực sự là một khoảnh khắc xúc động và trọn vẹn trong cuộc đời tôi, khi gặp được ông Nghệ,” Robinson kể lại với BBC.
Khi Robinson từ tốn giới thiệu bản thân mình và kể lại cho ông Nghệ chuyện gì xảy ra với bức ảnh, con gái của ông Nghệ – Jannie Nguyễn – đã bật khóc.
“Con gái ông òa lên nức nở, gần như gào thét rằng: ‘Cuối cùng… cuối cùng đã có người đến để giải oan cho ba tôi’,” ông Robinson chia sẻ với BBC.
Với ông Robinson, khi tìm được ông Nguyễn Thành Nghệ để nói lời tạ lỗi thì câu chuyện đeo bám ông suốt hơn 50 năm đã tạm khép lại.
Việc làm phim The Stringer là câu chuyện của nhà sản xuất Gary Knight và đạo diễn Bảo Nguyễn.
“Vợ tôi luôn ủng hộ nhưng cũng muốn tôi quên đi mà sống. Khi đó, cuối cùng, vợ tôi cũng hiểu và rất tự hào về sự dũng cảm của tôi, nhưng tôi luôn giữ mình khiêm cung. Tôi chưa từng mưu cầu vinh quang hay tiền bạc,” ông Robinson nói.
Chuyện gì đã xảy ra với bức ảnh?
Công việc đầu tiên của ông Carl Robinson khi mới được hãng AP tuyển dụng vào đầu năm 1968 là viết chú thích ảnh. Ông cho biết điều quan trọng nhất mà ông học được từ là sự tôn trọng đối với quy trình đó.
“Tôi luôn đảm bảo rằng tên của người chụp được ghi đúng vào từng bức ảnh, dù họ là phóng viên chính thức, cộng tác viên, hay ‘stringer’ – tức cộng tác viên bán thời gian,” ông nói.
Ngày 8/6/1972 – ngày bức ảnh nổi tiếng ra đời – ông Robinson là biên tập viên ảnh phụ trách. Khi đang xem sổ ghi chú – nơi ghi lại cẩn thận số hiệu cuộn phim – ông nhìn thấy hai bản sao cùng một số hiệu: một trên cuộn phim, một trong sổ.
“Tôi vừa gõ vừa nhìn sang vai trái, thì Horst Faas cúi xuống sát tai tôi và nói: ‘Nick Út – ghi tên Nick Út’, tôi đã làm như thế. Đó là sự thật.”
Ông Robinson nói ông cảm thấy bứt rứt vì đã làm vậy. Ông cũng nói thêm trong suốt thời gian ông làm ở AP, ông chưa bao giờ bị yêu cầu phải ghi tên người khác vào ảnh.
Ông giải thích lý do ông biết bức ảnh không phải do ông Nick Út chụp là vì Jackson Ishizaki, người từ Tokyo đến hỗ trợ phần biên tập và tráng phim tạm thời, đã cho ông xem những bức ảnh khi nó đã được in.
Khi đó có hai bức: một bức nghiêng kín đáo của Kim Phúc đang chạy và một bức trực diện phía trước. Ông Robinson sau đó đã quay lại kiểm tra cuộn phim mà Ishizaki lựa chọn.
“Chúng tôi thường làm như thế – kiểm tra lại lần nữa tên tác giả. Bức chụp nghiêng là của Nick Út, còn bức chụp chính diện là của một cộng tác viên (stringer). Tôi kiểm tra kỹ càng khi làm việc đó.
“Chúng tôi có cả ‘đội kỵ binh’ các cộng tác viên Việt Nam. Họ có thể là người dân hoặc đôi khi là quân nhân tranh thủ kiếm thêm tiền. Khi tôi kiểm tra lại tên người gửi phim, tôi thấy đó là từ một cộng tác viên không quen thuộc – không phải người thường xuyên cộng tác với chúng tôi nên tôi không nhớ rõ tên,” ông Robinson thuật lại với BBC.

Trong khi đó, ông Nick Út kể với BBC hồi tháng 1 rằng, sau khi đã đưa Kim Phúc đi bệnh viện, ông đã quay trở lại văn phòng và hét lên ông có hình đặc biệt về trận bom.
Ông Út nói lúc ấy không có ông Robinson hay có bất kỳ phóng viên nào khác, kể cả ông Nghệ, tại văn phòng.
“Khi rửa phim, Ishizaki thấy hình Kim Phúc trần truồng nên đã hỏi tôi tại sao cô ấy không mặc quần áo và tại sao ông lại chụp ảnh một cô bé ở truồng. Ông liền rửa ảnh 5×7 rồi mang ra phòng ngoài nơi có các phóng viên khác. Mọi người thấy bức hình liền gọi ông sếp của tôi là trưởng phòng ảnh của AP, ông Horst Faas, đang đi ăn trưa, chạy về gấp,” ông Út nói.
Và theo lời ông Út, khi ông Faas về tới văn phòng và cầm phim coi thì ông Robinson mới tới.
Còn ông Robinson nói với BBC rằng ông ăn trưa và quay lại văn phòng muộn hơn thường lệ, lúc ấy những bức ảnh đã được ông Jackson tráng xong và bày ra để xem xét.
“Chỉ có ba người trong phòng: tôi, Jackson và kỹ thuật viên phòng tối. Nick Út hoàn toàn không có mặt trong suốt quá trình đó, khi Horst Faas đến, khi tôi và Jackson thảo luận, chọn ảnh và chuẩn bị gửi đi.
“Nick chỉ bước vào sau đó. Cậu ấy mặc đồ thường – chắc là đã về nhà để thay đồ, tắm rửa. Nhưng rõ ràng là cậu ấy không đứng ngoài cửa để chờ một quyết định nào cả,” Robinson nói với BBC.

Email trả lời AP vào 15/2/2025, ông Robinson viết rằng việc chọn ảnh, trả lại các âm bản không dùng và thanh toán cho cộng tác viên luôn được thực hiện sau đó. Các nhiếp ảnh gia – dù là nhân viên hay cộng tác viên – chỉ đơn giản nộp phim, phim sẽ được ghi nhận lại, rồi họ rời khỏi văn phòng. Không ai ở lại để chờ quyết định cả.
“Họ không đứng lảng vảng phía sau vai chúng tôi để xem chuyện gì đang diễn ra. Họ để chúng tôi làm việc của mình,” ông Robinson khẳng định với BBC.
Trong cuộc phỏng vấn với BBC vào tháng 1, ông Út nói đã có bất đồng về bức hình nhưng không phải về việc ai là tác giả mà là đăng hay không đăng một bức ảnh có bé gái ở truồng.
Khi đó ông Robinson cho rằng không nên đăng, còn ông Faas đồng ý gửi đi. Sau đó, nhờ quyết định này mà bức ảnh trở nên nổi tiếng, đoạt giải Pulitzer và giải Ảnh báo chí Thế giới trong cùng năm 1973.
Ông Robinson giải thích rằng hai chuyện này là tách bạch, ông thừa nhận mình đã không đồng tình về bức ảnh khỏa thân và điều đó đơn giản là tuân theo chính sách của AP – không đăng ảnh khỏa thân trực diện, kể cả với trẻ em.
“Tôi không có gì để bực tức. Horst là cấp trên của tôi, là trưởng văn phòng, còn tôi là biên tập ảnh nên quyết định cuối cùng là ở ông ấy. Tôi không mang mối hận hay cảm thấy bị gạt ra bên lề bởi tranh luận là chuyện bình thưởng ở tòa soạn. Tôi lên tiếng ở đây là về việc ai là tác giả của bức ảnh,” ông nói với BBC.
Ông nói thêm rằng khi đó, ông không đủ dũng khí để chất vấn hành động của cấp trên của mình – người đã cho ông công việc này – vì ông muốn tiếp tục ở lại Sài Gòn với người vợ Việt Nam và hai đứa con thơ.
Phim The Stringer – Tại sao bây giờ?

Theo đoàn làm phim, câu chuyện từ ông Carl Robinson là “bước ngoặt” cho ra đời phim The Stringer nhưng phim không chỉ dựa vào lời kể của ông Robinson.
Chia sẻ với BBC về phim The Stringer, ông Bảo Nguyễn nói rằng lời chia sẻ từ Carl Robinson đã khiến ông tin tưởng về câu chuyện và gánh nặng mà ông Robinson đã mang suốt hơn nửa thế kỷ.
“Những giám định hình ảnh, phân tích do tổ chức INDEX thực hiện đã củng cố lời kể trước đây của ông Robinson. Tôi nhận ra rằng câu chuyện của ông Nghệ xứng đáng được xem xét một cách nghiêm túc.
“Điều này quan trọng vì sự toàn vẹn, liêm chính của bất kỳ quá trình đánh giá lại lịch sử nào đều phụ thuộc vào tính minh bạch, sự độc lập và tinh thần sẵn sàng xem xét lại những giả định đã tồn tại từ lâu. Đó cũng là một phần lý do tôi thực hiện phim này – không phải để viết lại lịch sử, mà để mở ra không gian cho những điều từng bị lãng quên và để trân trọng sự thật thầm lặng mà những người chưa từng được mời lên tiếng vẫn luôn cố gắng gìn giữ,” ông Bảo nói với BBC.
Lớn lên là một người Mỹ gốc Việt, đạo diễn Bảo Nguyễn nói rằng ông thường thấy Chiến tranh Việt Nam như một di sản mà thế hệ ông thừa kế, nhưng chưa bao giờ thực sự hiểu hết, chạm được đến.
“Nó tựa như một thứ gì đó luôn hiện hữu bên lề, được kể qua những bức hình, những tít báo, nhưng hiếm khi là những giọng nói thân thuộc. Lần đầu biết đến câu chuyện của ông Nghệ, điều khiến tôi xúc động không chỉ là câu hỏi về tác giả bức ảnh, mà còn là cách ông âm thầm đeo mang ký ức đó suốt hơn 50 năm. Ông không đòi hỏi sự chú ý, ông chỉ muốn được lắng nghe.
“Sự im lặng ấy đã chạm đến tận sâu trong tôi. The Stringer bắt đầu như một hành trình đi tìm sự thật và là cơ hội để lắng nghe một góc nhìn chưa từng được lên tiếng,” ông nói.

Cũng chính vì sự im lặng này, đạo diễn Bảo Nguyễn càng muốn tìm hiểu lý do phía sau câu chuyện – vì sao bị lãng quên hơn 50 năm.
Trong quá trình làm phim, ông dần nhận ra những đóng góp của các nhà báo Việt Nam – đặc biệt là những người làm việc tại địa phương – chưa từng được đưa vào cuộc đối thoại lịch sử rộng lớn hơn.
Người đã giúp ông hiểu rõ điều này là ông Trần Văn Thân, nhân viên phụ trách âm thanh của NBC [anh rể của ông Nghệ]. Ông Thân là một trong số ít người Việt Nam còn sống có mặt tại hiện trường. Trong phim, ông Thân nói rằng đã chứng kiến ông Nghệ chụp bức ảnh đó.
“Ông Thân chia sẻ rằng ông đã giữ câu chuyện này trong nhiều năm và với tư cách là người làm việc trong một hệ thống truyền thông quốc tế lớn hơn, ông cảm thấy mình không nên lên tiếng.
“Báo cáo của AP đã không bao gồm góc nhìn của Trần Văn Thân và việc thiếu vắng lời kể của ông ấy cho tới nay, phản ánh một thực tế rộng lớn hơn mà tôi chứng kiến: rằng tiếng nói của người Việt thường xuyên bị gạt ngoài lề trong chính những câu chuyện mà họ giữ vai trò trung tâm.
“Ông Thân có công việc, gia đình, trách nhiệm. Điều đó khiến tôi phải suy nghĩ lại câu hỏi thường thấy về câu chuyện của ông Nghệ – ‘tại sao lại là bây giờ?’
“Trong một số trường hợp, vấn đề không nằm ở việc chờ đến lúc lên tiếng, mà là liệu người đó cảm thấy mình có thể lên tiếng được hay không. Tôi nghĩ bây giờ là thời điểm có nhiều người chịu lắng lòng nghe hơn. Đó là lý do tại sao bây giờ là thời điểm thích hợp để lên tiếng,” ông Bảo nói với BBC.
Cho đến nay, AP, đơn vị sở hữu bản quyền tấm ảnh Em bé Napalm, vẫn giữ nguyên tên tác giả là Nick Út. Họ đã thực hiện hai cuộc điều tra và đi đến kết luận rằng việc Nick Út chụp bức ảnh là “có khả năng”, nhưng không thể chứng minh một cách dứt khoát do thời gian đã trôi qua, thiếu bằng chứng then chốt – chẳng hạn như phim âm bản đã bị mất, hạn chế về công nghệ và sự qua đời của một số nhân vật quan trọng có liên quan.
Mặt khác, AP cũng cho biết: “Những phát hiện mới được hé lộ trong quá trình điều tra đã đặt ra những câu hỏi chưa có lời giải và AP vẫn để ngỏ khả năng rằng Nick Út không chụp bức ảnh này.”
Ý kiến liên quan đến Nick Út và bức ảnh “Em bé Napalm”

Dù hãng tin AP cho biết “không tìm thấy bằng chứng xác đáng” để có thể thay đổi tác quyền bức ảnh “Em bé Napalm” của nhiếp ảnh gia Nick Út, nhưng mới đây World Press Photo nói họ ngừng ghi nhận Nick Út là tác giả bức ảnh này.
World Press Photo tuyên bố như thế sau một cuộc điều tra, cho rằng bức ảnh này có thể do một người khác chụp.
Cuộc điều tra của World Press Photo được tiến hành sau khi phim tài liệu “The Stringer” (Người Kéo Dây) công chiếu vào đầu năm, cho rằng “Em bé Napalm” – một trong những bức ảnh tiêu biểu của thế kỷ 20, được chụp bởi một người có tên Nguyễn Thành Nghệ.
Mặc dù vậy, World Press Photo nói rằng có khả năng tác giả thực sự của bức ảnh sẽ không bao giờ được xác định rõ ràng, và quyết định đình chỉ ghi nhận Nick Út là tác giả bức ảnh sẽ có hiệu lực tới khi có bằng chứng khác.
Thiết nghĩ, dù tác giả thực sự của bức ảnh là Nick Út đi nữa, thì vẫn phải nói rằng bức ảnh đó đã ít nhiều gây thiệt hại cho sự nghiệp chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa. Cho nên chẳng hay ho gì khi nhắc lại bức ảnh đó.
Và cũng chẳng hay ho gì khi nhắc lại cái tên Nick Út, kẻ đã làm tổn hại hình ảnh của Việt Nam Cộng Hòa.
2.
Cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc tròn 50 năm. Tới giờ này, nhà cầm quyền VN vẫn thích nói những từ “hòa hợp, hòa giải” (HHHG), thể như đã quen mồm, không nói không chịu được.
Sau đây là ý kiến của một số vị quan tâm tới tình hình đất nước :
-Theo tôi, chuyện HHHG chỉ là ngụy biện và không cần thiết, vì 50 năm qua đã chứng minh là không thể có được chuyện HHHG giữa người cộng sản và người quốc gia chống cộng. Khi nào đất nước VN không còn CS, thực sự có tự do, dân chủ thì lịch sử sẽ được viết lại trung thực, sự thật sẽ được phơi bày.
-Tôi đồng ý với ông Lý Quang Diệu khi ông cho rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam bị giam cầm trong ý thức hệ CS. Chính vì ý thức hệ này mà việc HHHG trở nên bất khả thi về phía “Bên Thắng Cuộc.”
-Ngày nào chính quyền Hà Nội còn sử dụng những từ “Chống Mỹ cứu nước,” “giải phóng miền Nam”… thì ngày đó vẫn chưa có HHHG!
Calitoday Tổng hợp