Nếu Trump thắng, liệu Mỹ có quay lại với chủ nghĩa biệt lập hay không?

0
2541

Nhiều người trong chúng ta nghĩ chủ thuyết “America First” la do Trump tạo nên, thưa không, chủ thuyết “America First”, còn gọi nôm na là chủ thuyết biệt lập đã có từ thế chiến thứ hai. Năm 1940, khi quân đội của Hitler tràn khắp châu Âu, ngày càng có nhiều đảng viên Đảng Cộng hòa phản đối việc gửi vũ khí của Mỹ tới Anh Quốc.

Họ nói rằng Hoa Kỳ sẽ lãng phí nguồn lực khi gửi viện trợ tới London và thay vào đó, Washington nên đặt “Nước Mỹ trên hết”.

Mời xem video bài bình luận qua Youtube

Kể từ những năm trước khi Mỹ bước vào Thế chiến thứ hai, khi Thượng nghị sĩ tiểu bang Ohio, Robert Taft và những người khác cảnh báo không nên viện trợ vũ khí cho Anh Quốc, thì tâm lý theo chủ nghĩa biệt lập mới thu hút được nhiều sự chú ý ở Mỹ từ lúc đó.

Vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, cuộc tấn công Trân Châu Cảng của Nhật Bản đã kết thúc cuộc tranh luận về tính trung lập của Hoa Kỳ. Hơn 80 năm sau, kết quả của sự bế tắc tại Quốc hội về gói viện trợ cho Ukraine và cuộc bầu cử vào tháng 11 năm nay có thể quyết định liệu Mỹ có tiếp tục đóng vai trò lãnh đạo trên thế giới hay rút lui khỏi các liên minh và theo đuổi con đường độc lập và chủ nghĩa biệt lập, bế quan tỏa cảng, tự cung tự cầu hay không.

Giờ đây, cựu Tổng thống 45, Donald Trump và các tay sai đồng minh của ông ta trong Quốc hội sử dụng cùng một khẩu hiệu để đưa ra những lập luận tương tự chống lại việc gửi viện trợ quân sự cho một quốc gia dân chủ khác ở châu Âu đang bị một chế độ độc tài hùng mạnh tấn công.

Trump và các đồng minh Đảng Cộng hòa của ông ta đang thúc đẩy một xu hướng chủ nghĩa biệt lập mới trong nền chính trị Mỹ, có thể làm thay đổi hoàn toàn cách tiếp cận của Mỹ với thế giới – với những hậu quả khó lường.

Hơn hai chục nhà lập pháp Đảng Cộng hòa đã viết trong một lá thư trong tháng này, tuyên bố phản đối viện trợ quân sự bổ sung của Mỹ cho Ukraine. Họ đưa ra những câu hỏi đại loại như: “Người dân Mỹ xứng đáng được biết tiền của họ đã đi vào đâu. Cuộc phản công diễn ra như thế nào? Người Ukraine có tiến gần đến chiến thắng hơn 6 tháng trước không?”.

Khi Ukraine kỷ niệm đúng hai năm kể từ cuộc xâm lược toàn diện của Nga, những người ủng hộ Trump tại Quốc hội tiếp tục ngăn chặn đề xuất gửi thêm viện trợ cho Ukraine, bất chấp lời cầu xin liên tục từ Ukraine rằng binh lính của họ đang chết vì thiếu đạn dược. Một số đảng viên Cộng hòa vốn ủng hộ việc gửi thêm trợ giúp đến Ukraine đã thay đổi lập trường của họ, bao gồm cả Thượng nghị sĩ Lindsey Graham của South Carolina, một nhà đấu tranh thẳng thắn cho chính nghĩa của Ukraine. Mà ai cũng biết sự thay đổi này đến từ áp lực bởi một công dân Mỹ sống ở Mar-a-Lago đang chờ các phiên tòa đó đây trên cả nước đưa ra xét xử.

Đó chính là Donald Trump, ứng cử viên hàng đầu cho đề cử tổng thống của Đảng Cộng hòa, một lần nữa đặt câu hỏi về giá trị của NATO và đặt ra nghi ngờ về việc liệu Mỹ có thực hiện cam kết với các đồng minh nếu ông ta trở lại Tòa Bạch Ốc thành công hay không. Trump cho biết hồi đầu tháng này rằng ông ta sẽ khuyến khích Nga “làm bất cứ điều gì họ muốn” nếu nước này tấn công một quốc gia NATO không chi đủ 2% cho chi phí quốc phòng. Và Trump cũng cho biết ông ta sẽ xem xét việc để Nga “tiếp quản” các khu vực của Ukraine trong một thỏa thuận khả thi nhằm chấm dứt chiến tranh.

Robert Kagan, một thành viên cấp cao tại Viện nghiên cứu Brookings, người đã viết một loạt sách về lịch sử của Trump, cho biết rằng: “Tôi thấy có nhiều điểm tương đồng giữa quan điểm và lập luận về chính sách đối ngoại của Mỹ với Đảng Cộng hòa Robert Taft trong những năm 1930 và Đảng Cộng hòa của Donald Trump ngày nay”.

Robert Kagan, tác giả cuốn sách “Nước Mỹ và sự sụp đổ của trật tự thế giới, 1900-1941” cho biết rằng: “Vào những năm 1930, những người bảo thủ Mỹ có khá nhiều thiện cảm với Đức Quốc xã, những người họ coi Hitler là bức tường thành chống lại chủ nghĩa cộng sản, giống như Đảng Cộng hòa của Trump giờ đây coi Tổng thống Nga, Vladimir Putin là bức tường thành vĩ đại và nhà lãnh đạo không phải chống lại chủ nghĩa cộng sản mà là chống lại chủ nghĩa tự do.”

Tương tự như những gì một số nhà lập pháp Đảng Cộng hòa nói về triển vọng của Ukraine, Đảng Cộng hòa vào những năm 1930 lập luận rằng “Anh Quốc chắc chắn sẽ thua và bất kỳ vũ khí hoặc tiền bạc nào gửi đến Anh đều bị lãng phí vì một lý do vô vọng, tốt hơn là nên tiêu số tiền đó ở trong nước”.

Chủ nghĩa biệt lập của Mỹ những năm 1930

Trong những năm 1930, sự kết hợp giữa cuộc Đại suy thoái và ký ức về những mất mát bi thảm trong Thế chiến thứ nhất đã góp phần thúc đẩy dư luận và chính sách của Mỹ hướng tới chủ nghĩa biệt lập. Những người theo chủ nghĩa biệt lập chủ trương không can dự vào các cuộc xung đột ở châu Âu và châu Á cũng như không can dự vào chính trị quốc tế. Mặc dù Hoa Kỳ đã thực hiện các biện pháp để tránh xung đột chính trị và quân sự trên khắp các đại dương nhưng nước này vẫn tiếp tục mở rộng kinh tế và bảo vệ lợi ích của mình ở châu Mỹ Latinh. Những người lãnh đạo phong trào biệt lập đã dựa vào lịch sử để củng cố vị thế của mình. Trong bài phát biểu chia tay của mình, Tổng thống George Washington đã ủng hộ việc không can dự vào các cuộc chiến tranh và chính trị ở châu Âu. Trong phần lớn thế kỷ 19, Hoa Kỳ nhờ vào sự rộng lớn của Đại Tây Dương và Thái Bình Dương bao bọc hai bên đã giúp Hoa Kỳ có thể tận hưởng một loại “an ninh tự do miễn phí” và phần lớn vẫn tách biệt khỏi các cuộc xung đột của thế giới. Tuy nhiên, trong Thế chiến thứ nhất, Tổng thống Woodrow Wilson đã ủng hộ sự can thiệp của Mỹ vào cuộc xung đột và lợi ích của Mỹ trong việc duy trì trật tự hòa bình của thế giới. Tuy nhiên, kinh nghiệm của Mỹ trong cuộc chiến đó đã củng cố lập luận của những người theo chủ nghĩa biệt lập. Họ lập luận rằng lợi ích ngoài lề của Mỹ trong cuộc xung đột đó không xứng đáng cho con số thương vong của Mỹ.

Theo các cuộc khảo sát và phân tích gần đây, những lời chỉ trích không ngừng của Trump đối với Ukraine, các đồng minh của Mỹ và sự can dự quốc tế nói chung – được những người ủng hộ ông ta và các cơ quan truyền thông cánh hữu nhắc lại – dường như đã có ảnh hưởng đến dư luận trong ba năm qua.

Trong một cuộc thăm dò mới của Hội đồng Chicago về các vấn đề toàn cầu, 53% đảng viên Đảng Cộng hòa cho rằng tốt nhất là tương lai của Hoa Kỳ nên đứng ngoài các vấn đề thế giới thay vì đóng vai trò tích cực. Nhận định đó đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử 49 năm của cuộc khảo sát mà đa số đảng viên Đảng Cộng hòa chấp nhận quan điểm đó.

Đối với Ukraine, tỷ lệ người Mỹ cho rằng Mỹ đang hỗ trợ quá nhiều cho Ukraine đã tăng đều đặn kể từ cuộc xâm lược toàn diện của Nga hai năm trước, đặc biệt là trong số những người theo đảng Cộng hòa, theo một cuộc khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Pew thực hiện vào tháng 11 và tháng 12.

Cuộc khảo sát của Pew cho biết, 48% đảng viên Đảng Cộng hòa và cử tri độc lập nghiêng về Đảng Cộng hòa nói rằng Mỹ đang cung cấp quá nhiều viện trợ cho Ukraine, trong khi chỉ 16% cử tri Đảng Dân chủ và cử tri nghiêng về Đảng Dân chủ coi mức hỗ trợ hiện tại là quá mức.

Matthew Kroenig, phó chủ tịch Hội đồng Đại Tây Dương, cho biết cách đây không lâu, việc gửi vũ khí tới Ukraine để chống lại lực lượng xâm lược của Nga đã được đảng của Ronald Reagan hoàn toàn ủng hộ.

Matthew Kroenig nói rằng: “Ronald Reagan thực sự đã xác định chính sách đối ngoại hiện đại của Đảng Cộng hòa trong hơn một phần tư thế kỷ. Học thuyết Reagan chủ yếu là trang bị vũ khí cho những người đấu tranh vì tự do chống lại những người cộng sản ở bất cứ nơi đâu trên khắp thế giới. Nhưng quan điểm đó của Reagan không còn được những đảng viên Cộng hòa ngày nay áp dụng.”

Thay vì những ý tưởng của Reagan về thị trường tự do, các liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo và nước Mỹ như ngọn hải đăng của tự do, đảng Cộng hòa của Trump lại tỏ ra thù địch với các thỏa thuận đa phương, thương mại tự do, không xem trọng các chính sách đối ngoại và thù ghét người nhập cư.

Mặc dù cử tri Cộng hòa ngày càng hoài nghi về viện trợ Ukraine, nhiều đảng viên Cộng hòa trong Quốc hội vẫn ủng hộ việc trang bị vũ khí cho Ukraine, nhưng một thiểu số trong Hạ viện đã có thể ngăn chặn cuộc bỏ phiếu về gói đề xuất dành cho Ukraine.

Các đảng viên Cộng hòa phản đối việc giúp đỡ Ukraine cho rằng đây là một nỗ lực vô ích và đã đến lúc Ukraine phải thừa nhận thất bại và đàm phán một thỏa thuận hòa bình với Nga.

Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa Tommy Tuberville của Alabama cho biết rằng: “Tôi chưa bỏ phiếu ủng hộ bất kỳ khoản tiền nào để đến Ukraine vì tôi biết họ không thể thắng”. Ông là một trong hơn hai chục đảng viên Đảng Cộng hòa đã bỏ phiếu chống lại gói viện trợ Ukraine được đề xuất tại Thượng viện. Tuberwille nói thêm rằng: “Donald Trump sẽ ngăn chặn điều đó khi ông ấy bước vào. Ông ấy biết rằng sẽ không có chiến thắng nào cho Ukraine. Ông ấy có thể đạt được thỏa thuận với Putin.”

Sự trỗi dậy của một quan điểm theo chủ nghĩa biệt lập, bảo hộ mới ở cánh hữu không phải chỉ có ở Trump và nước Mỹ. Các đảng cực hữu ở châu Âu, ủng hộ điều được gọi là chủ nghĩa dân tộc Cơ đốc giáo hoặc chủ nghĩa dân tộc bảo thủ, cũng đang đặt câu hỏi về trật tự hậu Thế chiến thứ hai và hoài nghi về việc trang bị vũ khí cho Ukraine.

Nhiều người trung thành với Trump đã dành nhiều lời khen ngợi cho Hungary, dẫn đầu là Thủ tướng Viktor Orban, người bị cáo buộc áp đặt chế độ cai trị chuyên quyền đối với đất nước của mình và phản đối viện trợ của châu Âu cho Ukraine trong khi vẫn giữ mối quan hệ thân thiện với Tổng thống Nga, Vladimir Putin.

Ngay cả trước khi Trump nổi lên như một nhân vật chính trị, các cuộc chiến tranh kéo dài ở Afghanistan và Iraq đã làm lung lay niềm tin của nhiều người Mỹ vào cách quản lý chính sách đối ngoại của Washington, đặc biệt là phe chính trị cánh tả, đồng thời đặt ra câu hỏi về những gì sẽ đạt được khi can thiệp quân sự của Mỹ ở nước ngoài.

Nhưng sự mệt mỏi với cách tiếp cận “chủ nghĩa quốc tế” truyền thống của Hoa Kỳ đã phát triển thành một loạt bất bình do Trump khơi dậy, với lập luận cơ bản cho rằng nước Mỹ đang bị người di cư đe dọa và đang nhận được một thỏa thuận thô bạo từ các đối tác của mình và “những người theo chủ nghĩa toàn cầu hóa”, những người định hình nên chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ.

Nếu viện trợ được đề xuất cho Ukraine không giành được sự chấp thuận tại Quốc hội và nếu Trump quay lại Tòa Bạch Ốc thành công và sẽ thực hiện chương trình nghị sự ‘America First’ của mình, điều đó sẽ có ý nghĩa gì đối với Hoa Kỳ và thế giới?

Các quan chức và nhà phân tích hiện tại và trước đây của phương Tây cho biết nếu Mỹ rút lui khỏi các liên minh, nguy cơ xảy ra các cuộc chiến tranh khu vực hoặc thậm chí thế giới sẽ gia tăng, nền kinh tế toàn cầu có thể bước vào một kỷ nguyên bất ổn hơn và các đối thủ độc tài sẽ mạnh dạn vi phạm các chuẩn mực của thế giới mà không e ngại.

Ricarda Lang, một đồng lãnh đạo của Đảng Xanh của Đức, một phần của liên minh cầm quyền của đất nước này, cho biết tại Hội nghị An ninh Munich rằng: “Nếu Putin của Nga giành chiến thắng ở Ukraine, Putin và cả Tập Cận Bình sẽ biết rằng, họ có thể thay đổi biên giới ở Châu Âu và Châu Á và Liên minh NATO cũng như các quốc gia khác sẽ không chống lại họ. Điều đó sẽ dẫn đến một thế giới có ít an ninh hơn và một thế giới có ít tự do hơn cho EU cũng như cho cả Hoa Kỳ.”

Với quy tắc “trật tự dựa trên luật lệ” do Hoa Kỳ lãnh đạo kể từ Thế chiến thứ hai, GDP bình quân đầu người trên thế giới và ở Hoa Kỳ đã tăng gấp nhiều lần kể từ năm 1945, khi đó chỉ có khoảng hơn mười nền dân chủ trên thế giới và hiện nay có khoảng hơn 100 nền dân chủ. Mỹ và các đồng minh đã giúp mở ra một kỷ nguyên hòa bình, thịnh vượng và tương đối ổn định hơn trong 80 năm qua, nhưng giờ đây người Mỹ coi đó là điều hiển nhiên.

Robert Kagan nói rằng: “Tôi nghĩ nó hoạt động hiệu quả đến mức mọi người cho rằng đó là trạng thái tự nhiên của mọi việc, rằng nếu Hoa Kỳ rút lui thì mọi thứ vẫn sẽ tiếp tục diễn ra suôn sẻ. Nhưng thật không may, điều đó sẽ không xảy ra. Nếu Hoa Kỳ rút lui, những kẻ ác sẽ lấp đầy khoảng trống và chúng ta sẽ xảy ra xung đột và hỗn loạn kinh tế. Và nước Mỹ cũng bị vạ lây, không quốc gia nào là an toàn và miễn nhiễm với tất cả biến động của thế giới.”

Những người ủng hộ “America First” cho rằng các điều kiện đã thay đổi đáng kể kể từ Chiến tranh Lạnh, rằng Hoa Kỳ đã trở nên mở rộng quá mức, rằng công nhân Mỹ không được hưởng những lợi ích của thương mại tự do và rằng Hoa Kỳ cần tập trung vào các nhu cầu của mình trong nước, bao gồm cả một cuộc đàn áp di cư ở biên giới phía nam.

Nhưng trong bài phát biểu tại Hội nghị An ninh Munich cách đây một tuần, Phó Tổng thống Mỹ, bà Kamala Harris đã cố gắng chứng minh “sự lãnh đạo toàn cầu liên tục” của Mỹ, cảnh báo về nguy cơ từ bỏ các đồng minh. Harris nói rằng: “Lịch sử đã cho chúng ta thấy rằng, nếu chỉ nhìn vào bên trong thì không thể đánh bại được mối đe dọa từ bên ngoài. Sự tự cô lập sẽ không thể phát triển. Trên thực tế, khi Mỹ tự cô lập mình, các mối đe dọa chỉ tăng lên.”

Lời kết:

Vào cuối Thế chiến thứ nhất, Mỹ đã rút lui theo chủ nghĩa biệt lập, chính sách đó đã thất bại và kể từ đó, Mỹ đã cam kết bắt đầu khai triển hoạt động phòng thủ ở phía xa của đại dương.

Giờ đây, sẽ là một sai lầm nghiêm trọng nếu người Mỹ muốn đi ngược về quá khứ.

Cựu phó thủ tướng Đức Joschka Fischer đưa ra một thông điệp rất rõ ràng: “Sự kết thúc của NATO và sự bảo đảm an ninh của Mỹ có thể sắp đến gần, vì vậy châu Âu không còn lựa chọn nào khác ngoài việc trở thành một cường quốc quân sự và chính trị theo đúng nghĩa của mình. Để đạt được mục tiêu này, chúng ta cần một chính sách đối ngoại chung, khả năng quân sự chung, chiếc ô hạt nhân chung của châu Âu do các thành viên trong khối như Anh, Pháp cung cấp và mọi thứ khác tạo thành nền tảng cho quyền lực chủ quyền có ý nghĩa trong thế kỷ 21. Thay vì chỉ hy vọng vào một kịch bản tốt nhất tức là việc Tổng thống Joe Biden tái đắc cử, vì ông sẽ người sẽ tiếp tục ủng hộ Ukraine và duy trì các cam kết phòng thủ của Mỹ. Nhưng bất kể là kết quả tốt như vậy thì Châu Âu vẫn phải chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất có thể đến sau nhiệm kỳ thứ 2 của ông Biden. Dù chậm nhưng vẫn còn hơn không, chúng ta phải tự đứng lên bằng đôi chân của mình từ bây giờ và bằng sự đoàn kết “hợp quần gây sức mạnh”, một khối NATO với 31 quốc gia và không có Mỹ vẫn là một lực lượng quân đội lớn ở lục địa này”.

Nếu châu Âu không “nhanh tay đưa ra một kế hoạch phòng thủ” rõ ràng trước hội nghị thượng đỉnh NATO vào tháng 7 này, thì năm 2024 có thể sẽ được nhớ đến là năm Ukraine bị bỏ rơi, và liên minh xuyên Đại Tây Dương NATO tan vỡ, gây ra những hậu quả thảm khốc cho châu Âu và thế giới, trong đó nước Mỹ cũng bị vạ lây.

Việt Linh

https://www.nbcnews.com/politics/national-security/if-trump-wins-america-isolationist-1930s-rcna140357

https://www.npr.org/transcripts/1233702467

https://www.prospectmagazine.co.uk/world/united-states/65040/trumps-return-are-we-ready

https://bnnbreaking.com/world/us/from-isolation-to-global-leadership-the-evolution-of-us-foreign-policy-and-the-risks-of-a-return-to-isolationism

https://news.yahoo.com/trump-wins-u-become-isolationist-140000390.html