Cali Today News – Chiếc xe Huế- Bình Điền thả chúng tôi xuống gần nhà ga xe lửa thành phố. Trời bắt đầu về chiều nhưng cơn nóng tháng Tám vẫn còn oi bức. Mấy anh em hối hả chia tay, ai cũng lo tìm đường về nhà. Chuyện trước mắt cho mọi người là vậy.
Tôi ngơ ngác ngó quanh. Mấy năm xa vắng cố đô, Huế sao giờ này xác xơ và xa lạ? Từ rừng xanh về lại chốn thị thành, mới biết quê hưong chỉ sau vài năm mà tiều tụy đến não nề! Ga Huế im lìm trong cơn nắng . Những cửa sổ, cái bể, cái vá bằng những mảnh ván tạp nhạp. Quanh nơi tôi đứng, vài ba cái quán bán hàng vặt đìu hiu trong gió, vài thẩu kẹo, năm ba nải chuối đu đưa.
Tiếng mời đi xe của mấy người xe đạp ôm đưa tôi về thực tại:
– Đi xe không eng…? !
-chú… chú …đi xe cháu nì chú?!
Tôi nhìn quanh toàn là xe đạp. Những chiếc xe méo mó, sét rỉ, không vẻ gì chắc chắn để làm chuyện chở người. Đến nỗi này sao? Người Huế giờ lại “sáng tạo” ra một cách làm ăn mà tôi chưa bao giờ thấy trước đây. Họ phải tận dụng hết sức lực ‘cơ bắp’ của mình kiếm đồng tiền, bát gạo trong một xã hội ít ai còn tiền để đi. Họ phải ‘bấm bụng’ giành miếng ăn từ mấy anh xích lô đạp bao năm nay, những chiếc xe lambretta, những chiếc xe đò hai màu xanh trắng. Ngày xưa người ta cũng đi “xe ôm, xe thồ” nhưng tệ lắm là chiếc honda, nhấn ga là chạy “vù vù”, thế mà đã than khổ rồi?
Tôi không biết từ chối hay nhận lời ai đây? Tôi ái ngại nhìn những ánh mắt cầu khẩn của mấy người đạp xe đạp ôm bằng tuổi em tôi. Những nét mắt chưa xóa đi nét vô tư và hồn nhiên của những ngày chỉ biết cắp sách đến trường, áo cơm thì có ba mạ lo, giờ thì chẳng còn chi! Cũng may có thêm khách và tôi khỏi từ chối ai. Tôi chọn cuốc xe của một em đạp xe đạp ôm bằng tuổi em tôi:
-Về Tây lộc mấy rứa?
-Chú cho 3 đồng à chú.
Nhìn dáng của tôi, em đó cũng chẳng ‘nói thách’ làm gì, chúng tôi là … cải tạo mà. Xa Tây Lộc không biết mấy năm rồi. Tôi vẫn nhớ nồi cháo gà thơm phức của mạ đích tôi, hồi đó nổi tiếng trong cái chợ mới xây, đặt tên là chợ Tây Lộc, kế đường Trần quốc Toản.
Người thiếu niên gò lưng cố đạp qua cầu Sông Hương. Chiếc cầu mới xây sau này, giờ cũng nét “rêu phong, rệu rả”. Huế giờ này sao nhiều xe đạp quá đi thôi! Tôi hơi lấn người tới trước như muốn mình được ‘nhẹ hơn’. Hỏi chuyện, tôi biết em đạp xe còn đi học nhưng phải kiếm thêm tiền về cho mạ. Em không biết cách gì để giúp gia đình nữa, phương tiện là chiếc xe đạp nhưng lại bon chen lắm mới kiếm ra người khách. Có khi cả ngày em mới được một ‘cuốc’ xe chỉ đủ mua ba lon gạo.
Xe đã vô cửa Thượng Tứ. Nó cứ rập rành qua mấy đoạn có ổ gà, ổ vịt. Tôi lại rướn người lên cho nhẹ bớt khi nghĩ đến cảnh cái ruột xe của em bị dằn qua mấy chỗ đá nhăm. Từ sau, tôi thấy áo trắng bạc màu của em đã lấm mồ hôi, hơi thở của em dồn dập, em ráng cho xong một đoạn đường nữa để có mấy đồng bạc Bắc mà tôi đã để sẵn mà trả cho em.
Nhớ về quá khứ, đây đâu phải là lần đầu tôi được chở đi bằng xe đạp. Nhưng hồi đó là đi chơi,đi dạo mát vui thú cái tuổi thiếu niên sau những ngày học hành mệt nhọc. Giờ đây tôi là một gánh nặng cho một em mới lớn; em phải đổi sức lực của mình để kiếm vài lon gạo cho mẹ già và mấy em đang đợi ở nhà. Cái điệp khúc mệt mõi này lại kéo dài trong cái não nùng , buồn tủi, đợi mong.
*****
GIÃ TỪ GA HUẾ – GIAN NAN CHO CÁI VÉ TÀU
Thập niên 1980 dân mình sợ nhất là chuyện đi xa. Huống gì tôi, khi cầm cái giấy ra trại trong tay, nó không thể là cái giấy thông hành loại ưu tiên cho tôi về với gia đình một cách thuận lợi.
Vé tàu đây là vé tàu hoả, hay xe lửa. Ai gọi sao cũng được miễn là đưa được cái ‘thân hình’ vào trong toa chiếc tàu chợ là một điều may mắn. Năm này nghe đã có tàu THỐNG NHẤT, nhưng đây không phải là hình ảnh người dân mong đợi, huống gì tôi là người tù được tha về.
Trong nhà mạ tôi đã dặn kỹ rồi phải lên ga từ sau nửa đêm mới hi vọng mua được vé tàu hoả. Thế là tôi tìm cách lên ga Huế nằm chờ trong đêm. “Những tư tưởng lớn gặp nhau” khi trong cái phòng rộng không ghế, chẳng bàn, người ngồi lố nhố từ lâu. Người ngồi dựa lưng vào vách, kẻ lót tạm cái bao nằm co quắp qua đêm. Nhưng chẳng ai rời cái bị lác hay bao bột mỳ cũ đựng đồ bên trong hay mấy cái bao cát màu xanh của quân đội năm xưa.
Những ô cửa bán vé đang đóng im lìm trong canh khuya.
Tôi tìm chỗ, ngồi bệt xuống cái nền xi măng dơ bẩn, dựa lưng suy nghĩ miên man. Tôi nhớ về hình ảnh mấy ngày qua, y như giấc mộng … Những cái rẫy sắn bạt ngàn, những rừng mây nước đầy gai của Bình Điền phía Tây nam Huế. ,.tiếng trại đọc tên người được tha về, những bước chân người về vội vả không dám ngó lui cái trại tù quá nhiều ấn tượng…tôi không thể chợp mắt chút nào, lòng nôn nao tưởng tượng đến hình ảnh gia đình tôi ba mẹ, các em , dì cậu bà con trong đó sẽ mừng thế nào khi bước chân tôi về đến ngõ.
Tôi lại nhớ về hình ảnh mẹ đích tôi, em Hoà .. còn lại sinh nhai ở Tây Lộc, anh Nghĩa, con đầu ba tôi giờ phiêu bạt ra sao? Tiếng mừng rỡ của những người bạn chí thiết của tôi tại xóm Cửa Hậu một thành phố mất rồi. Sự giúp đỡ chí tình của Bốn và bà con bạn bè ngoài Hải Trí , ngoài Đông hà, ôi ! một tình thuơng , ngập tràn ân nghĩa.
Đêm còn dài. Tôi không dám bắt chuyện với ai. Cái rụt rè của người mới ra tù, giờ tôi nhớ lại . Có lẽ họ xem tôi như ‘anh du kích’ nào trên rừng mới về do tôi không bận áo quần sọc tù mà bận cái áo ka ki lính màu ô liu đã bạc màu. Cái mũ cối bằng rơm vàng mà trại phát, thêm cái va lô VNCH cũ mà tôi từng dùng bao năm nay. Thỉnh thoảng tôi nắn lại kiểm soát cuộn tiền xem còn không. Tôi chia số tiền ra hai nơi; một nữa để mua vé, một nửa phòng thủ khi cần thiết.
GIÂY PHÚT BON CHEN
Độ ba giờ sáng thiên hạ đã tới chật cứng cả phòng đợi. Tôi bắt đầu cảm thấy ngột ngạt, sự lo lắng của tôi tăng dần. Làm sao mà có vé bán đủ cho ngần ấy người? Làm sao tôi có vé đây? Hình ảnh khi trời rạng sáng sẽ ra sao trước ba cái ô nho nhỏ bán vé kia?
Năm giờ sáng trời hơi ràng rạng. Những khuôn mặt bồn chồn, tiếng ồn ào bắt đầu lớn dần. Một đám đông không đang sắp hàng thứ tự mà một đám đông bắt đầu dồn nén lẫn nhau. Từ ông già , trung niên, cho đến mấy anh thanh niên đều chuẩn bị. Tôi tưởng tượng tất cả ‘ bắp thịt’ của họ đã ‘sẵn sàng’!
Riêng tôi, nhờ tới rất sớm nên không xa cửa bán vé bao nhiêu. Trong tôi, nửa do dự, nửa lo sợ rụt rè không sẵn sàng ‘tung hết’ sức ra đối phó với tình hình xem chừng gay cấn đến nơi? Mới ra tù, ai tôi cũng lo, cũng e sợ. Tôi chưa hết cái cảm giác bị ràng buộc, canh chừng như ở trong trại. Mọi người, mọi thứ đều “hơn tôi” một bậc.
Tiếng tu huýt của người bảo vệ rít lên. Cửa bán vé mở rồi! Tôi chưa kịp thấy người bán vé, nam hay nữ thì một sức mạnh như ‘triều dâng thác lũ’ cứ đẩy tôi lui dần…lui dần. Lúc này sao tôi yếu quá. Thật sự tôi yếu ớt quá, những ngày tháng thiếu ăn làm tôi yếu ớt hay do dự không muốn căng thẳng với ai làm tôi yếu thế kia? Hết sức bình sinh tôi cố lấn nhưng rất ít kết quả.
Tiếng la hét, chữi rủa vang lên loạn xạ. Hết kiểm soát rồi! Nhưng có ai kiểm soát đâu? Giờ chỉ còn là “sức mạnh” và la hét cuồng nộ thôi; ngoại trừ tôi, do quá rụt rè không dám kéo ai , mạnh tay hay ‘dữ dằn’ với ai.
Chợt có tiếng tu huýt vang lên từng hồi liên tục, tiếng la ơi ói phía trước. Có chuyện gì bất thường trước đó?
-xê ra, xê ra mau!
Người bảo vệ nhà ga vừa thổi còi vừa đạp lên vai người dân buơn về trước, tiếp đến hai ba người nữa. anh ta phải đi trên “đống người” do không còn cách nào chen nỗi. Mặt anh đỏ gay, hơi thở hồng hộc, cái băng đỏ bảo vệ bên tay áo phải xập sình gần rời ra. Không ai chống lại anh. Bảo vệ vừa kéo vừa la hét, họ đạp trên đầu đám đông thật sự; tuy vậy chẳng thấy ai lùi lại sau.
– Chuyện gì ?… Cái chi rứa?… chuyện gì vậy?
Câu trả lời rõ ràng tiếp liền theo là hình ảnh ba người bảo vệ kéo lê thân mình anh thanh niên đầu tóc rũ rượi ra ngoài. Thì ra anh ta bị ngất. Tôi chứng kiến một sự thật trước mắt: một thanh niên “phải xỉu” khi giành vé tàu?
-hết vé ,hết vé!
Tôi nghe tim mình như ngưng đập, trời đất như sụp đổ!
-Hết vé rồi? làm răng đây?
Cả đám đông khựng lại…
-răng mà hết vé , mới bán mà ?
-tiêu chuẩn …ưu tiên…. vừa phải thôi chớ?
Người ta càu nhàu, chửi rũa. Tôi không còn nghe gì khi trong tôi đang ‘chết lịm’!
Thất vọng !
Tôi quay ra vào phòng bưu điện “đánh giây thép” (1)(điện tín) vào Hàm Tân cho gia đình tôi biết tình hình khó mua vé tàu.
-răng eng không tới Công An ga xin phương tiện?
Một bác không mua được vé như tôi, sau khi nghe hoàn cảnh tôi mới được tha về, nên mách cho tôi vậy.
Phòng công an nằm ở cuối ga. Thú thật, do nóng lòng bởi phuơng tiện nên tôi mới ‘bấm bụng’ làm gan đẩy cửa bước vào.
Tôi không còn nhớ mấy ông công an Ga Huế bận đồ thường hay đồ cảnh phục nữa. Tôi đưa giấy ra trại ra và trình bày. Hình ảnh tôi nhớ sâu đậm nhất là cái lắc đầu lạnh lùng và ánh mắt lừ đừ như vô hồn từ chối lời thỉnh cầu của tôi về chuyện vé tàu vào nam. Họ trả lời tôi, họ chỉ lo an ninh còn vé tàu thì họ không có “thẩm quyền”.
Thế là hết, thêm một lần nữa thất vọng tôi vội bước ra khỏi phòng công an. Hai chữ và hình ảnh công an tôi muốn tránh thật mau lẹ, vạn bất đắc dỉ tôi mới tiếp xúc lại. Chỉ mấy ngày xa trại tù, ngày nào cũng không khỏi trong vòng canh giữ của họ. Tôi ra thật nhanh do nỗi ám ảnh vô lý, chẳng khác gì họ sắp bắt tôi ‘lên lại trại tù Bình Điền’ vậy.
Tôi đi lên, đi xuống, gặp ai tôi hỏi đó.
Chợt ánh mắt tôi bắt gặp một đám người đang lố nhố trước mắt, tôi bước nhanh tới đó. Một thanh niên và một đứa bé đang đứng trấn một lỗ hổng vừa người chun qua tại bờ tường chia cách sân tàu tới và phía ngoài đường.
Người thanh niên và đứa thiếu niên đều có giọng nói Hà tĩnh, Nghệ an gì đó:
– đựa năm đồng chui qua lộ (lỗ) ni, chờ tàu tới mấy bác cứ lên và sau đó cứ ghi vé phạt, năm đồng năm đồng thôi …
Tôi nghe thế mừng như ‘chết đuối vớ được phao” vậy. Thú thật giờ này mà hai người kia nói mười đồng hay vài chục tôi cũng phải đưa thôi. Tôi gấp vào, tôi muốn lên được tàu dù mọi giá Một điều lạ, tại sao có cái lỗ này? mấy ông bảo vệ sao không biết? Thật sự lúc đó tôi không có thì giờ để thắc mắc, chỉ đưa ngay năm đồng cho anh thanh niên giọng Nghệ An kia. Thấy lâu, anh ta vội đẩy tôi lên cao bảo tôi nhảy, dành lỗ kia cho mấy người
kia chui qua.
Nhảy xuống xong, móc cái ba lô lên vai, tôi nhìn anh thanh niên ra vẻ biết ơn, vội ù chạy càng nhanh càng tốt do sợ an ninh bắt lại. Cái sợ của tôi ‘nhân đôi’ do tôi là một ‘thằng phạm'[2] mới được tha về …
===========================================================
[1] ngày xưa đánh điện tín (telegraph) người trung hay nói là đi ‘đánh giây thép’
[2]: ngoài kia hay gọi người tù người bị án là phạm