Friday, December 8, 2023
spot_img

MỘT SỐ TUỔI TUẤT RẠNG DANH

1/- Sophia Loren, tên khai sinh Sofia Costanza Brigida Villani Scicolone, sinh ngày 20 tháng 9 năm 1934, tuổi GIÁP TUẤT, là một nữ diễn viên người Italia đã từng đoạt tượng vàng Oscar. Bà thường được biết đến như nữ diễn viên Ý nổi tiếng nhất vào các thập niên 50 – 60. Loren nổi tiếng vì vẻ đẹp gợi cảm cùng tài năng trong cả lĩnh vực điện ảnh lẫn âm nhạc. Năm 1999, Viện phim Mỹ đã xếp bà vào một trong số những ngôi sao điện ảnh vĩ đại nhất mọi thời đại. Bà cũng là một trong số ít những diễn viên trong danh sách này còn sống cho đến ngày nay.

Loren sinh ra tại Clinica Regina Margherita ở Ý, là con của Riccardo Scicolone và người tình Romilda Villani, một cô giáo dạy dương cầm và cũng là một diễn viên. Riccardo không làm đám cưới với Romilda và bỏ rơi bà. Sofia cùng mẹ và chị ruột Maria về Pozzuoli, gần Naples, để sống với ông bà ngoại.

Năm 14 tuổi, Sofia tham gia một cuộc thi Hoa Hậu ở Naples và cô được vào vòng chung kết, nhưng không thắng. Sau đó, cô ghi tên một lớp học diễn xuất và đóng một vai phụ trong một số phim của Mervyn LeRoy như Quo Vadis, khởi đầu sự nghiệp điện ảnh của mình. Cô lấy nghệ danh là Sophia Loren. Mặc dù rất đẹp và vô cùng hấp dẫn, nhưng Sofia Loren có một cuộc sống tư riêng với chồng (Carlo Ponti) rất bình thường và hạnh phúc. Sophia Loren làm việc với nhiều đạo diễn, nhưng vẫn là một đối tác thủy chung với  Marcello Mastroianni.

2/- Sylvester Stallone: Sylvester Stallone tên thật là Sylvester Gardenzio Stallone, sinh ngày 6 tháng 7 năm 1946 tại New York, tuổi BÍNH TUẤT. Ông vừa là diễn viên, vừa là người viết kịch bản, đạo diễn và nhà sản xuất phim. Ông đã nhận 24 giải thưởng, 25 lần đề cử trong đó có 2 giải Oscar.

Sylvester Stallone từng theo học tại một trường ngoại ô Philadelphia. Năm 1973 ông theo nghề diễn viên ở New York nhưng thất bại. Sau đó Sylvester Stallone tìm tới Hollywood, ông thường xuyên lui tới các trường quay và các buổi tuyển chọn diễn viên, cố gắng xin vào các vai nhỏ trong phim truyền hình và màn ảnh rộng. Ông vẫn không quên ham mê sáng tác, và hình tượng võ sĩ quyền anh Rocky Balboa ra đời. Vài nhà sản xuất định mua kịch bản đó và cho một diễn viên ăn khách thủ vai, quả nhiên sự kiên nhẫn của ông được đền đáp xứng đáng, võ sĩ Rocky đã đến được với khán giả với vai chính là tác giả kịch bản. Bộ phim đem lại cho ông một giải Oscar về phim hay nhất.

3/- Liza Minnelli: Liza May Minnelli sinh 12 tháng 3 năm 1946, tuổi BÍNH TUẤT, là một diễn viên và ca sĩ người Mỹ được biết đến nhiều nhất với vai diễn Sally Bowles trong bộ phim âm nhạc năm 1972 Cabaret, với giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất.

Từ năm 1948 đến năm 2013, Liza Minnelli đã đóng 27 phim và đã được nhiều giải thưởng về Best Actress. Phim đầu tiên là In The Good Old Summertime, phim Cabaret năm 1972, Giải thưởng Golden Globe Awrad  for Best Actress, năm 2010, phim Sex and the City 2, phim cuối cùng Smash 2013 (vai phụ).

4/- Ava Lavinia Gardner (24.12.1922 – January 25.1.1990) là một nữ diễn viên người Mỹ gốc Ireland và gốc Anh, đã được đề cử nhận Giải Oscar và được ghi tên trong Danh sách 100 ngôi sao điện ảnh của Viện phim Mỹ.

Gardner sinh ngày 24 tháng 12 năm 1922, tuổi NHÂM TUẤT, trong vùng trang trại nhỏ ở Grabtown cũng gọi là Brogden, Quận Johnston, Bắc Carolina, Cô là con út trong số 7 anh chị em (2 anh trai Raymond và Melvin, cùng 4 chị gái Beatrice, Elsie Mae, Inez và Myra), thuộc gia đình nông dân nghèo trồng bông vải và thuốc lá. Mẹ là Molly, gốc người Ireland-Scotland-Anh, theo giáo phái Tin lành Báp-tít; còn cha là Jonas Bailey Gardner, một người Công giáo gốc Ireland và bộ tộc da đỏ Tuscarora. Khi các con còn nhỏ, gia đình Gardner bị mất sản nghiệp, buộc người cha Jonas Gardner phải làm việc trong một xưởng cưa và người mẹ Molly bắt đầu làm quản gia và nấu ăn tại nhà ở tập thể của các giáo viên gần trường Brogden.

Gardner và vài anh chị em học trường Trung Học ở Rock Ridge. Cô tốt nghiệp năm 1939 và theo học các lớp thư ký tại trường Atlantic Christian College ở Wilson trong vòng một năm.

Khi 18 tuổi, Gardner trở thành cô gái có da ngăm đen với đôi mắt xanh đẹp tuyệt vời. Khi tới thăm người chị Beatrice (“Bappie”) ở New York năm 1941, thì Larry Tarr, chồng của Beatrice, một thợ chụp ảnh chuyên nghiệp, đã đề nghị chụp chân dung của nàng. Anh ta rất hài lòng về các ảnh chân dung này và trưng bày ở cửa sổ đàng trước ở tiệm chụp hình của mình tại Đại Lộ thứ Năm (Fifth Avenue).

Ava Gardner trong phim My Forbidden Past (1951)

Năm 1941, Barnard “Barney” Duhan, nhìn thấy ảnh của Gardner tại tiệm chụp hình của Tarr. Thời gian đó, Duhan thường giả bộ như một người săn tìm tài năng cho hãng phim MGM để gặp các cô gái, dùng sự kiện hãng MGM đã từng là công ty phụ của Loews. Duhan vào tiệm của Tarr tìm cách xin số của Gardner, nhưng bị nhân viên tiếp tân dứt khoát từ chối. Duhan bình luận ngay tức khắc: “Ai đó sẽ phải gửi thông tin của cô ta cho hãng MGM”, và tiệm chụp hình của Tarr đã làm ngay việc đó. Ngay sau đó, Gardner – lúc đó là sinh viên của trường Atlantic Christian College – liền tới thành phố New York để được văn phòng của hãng MGM ở New York phỏng vấn. Cô được hãng MGM đề nghị một hợp đồng tiêu chuẩn, và bỏ trường để tới Hollywood năm 1941 cùng người chị Bappie đi kèm.

Gardner được đề cử Giải Oscar cho vai diễn trong phim Mogambo (1953); tuy nhiên bị mất về tay Audrey Hepburn trong phim Roman Holiday. Nhiều người nghĩ rằng diễn xuất tinh tế của Gardner như một Maxine Faulk trong phim The Night of the Iguana (1964), trong đó cô ta không được đề cử (tuy nhiên Grayson Hall, vai Judith Fellowes đau khổ vì bị kìm nén tình cảm, lại được đề cử giải Oscar thể loại diễn viên phụ xuất sắc nhất).

Các phim khác của Ava Gardner trong đó có The Hucksters (1947), Showboat (1951), The Snows of Kilimanjaro (1952), The Barefoot Contessa (1954) (mà một số người coi như phim tiêu biểu của Gardner, trong đó phản ánh tục lệ đi chân trần trong đời sống thực của nàng), Bhowani Junction (1956), The Sun Also Rises trong đó nàng đóng vai cô gái chỉ thích ăn chơi Brett Ashley, 1957), và phiên bản phim của quyển sách bán chạy nhất On the Beach của Neville Shute, cùng đóng vai chính với Gregory Peck.

5/- Norman Schwarzkopf: H. Norman Schwarzkopf, Jr. sinh 22 tháng 8 năm 1934, TUỔI GIÁP TUẤT (mất 27 tháng 12 năm 2012) là Đại Tướng Tư Lệnh Bộ tư lệnh Trung Đông, Quân đội Hoa Kỳ (1988-1991).

Norman Schwarzkopf tốt nghiệp thủ khoa trường Thiếu sinh quân Valley Forge (Valley Forge Military Academy) năm 1952. Ông là một trong 5 sinh viên sĩ quan toàn quốc được nhận vào trường Võ bị Quốc gia Hoa Kỳ West Point qua chương trình tuyển sinh dạnh dự quân đội (military honor appointment) dành cho các học sinh xuất sắc của các trường thiếu sinh quân tại Hoa Kỳ.
        – 1960 bổ nhiệm Tùy viên quân sự cho Đại Tướng Charles E. Johnson III, Bộ Tư lệnh Berlin.

       – 1961 được thăng cấp Đại úy, và theo học khoá huấn luyện chiến thuật bộ binh cao cấp (advanced infantry tactics course) tại Fort Benning, Georgia.

1962-1964 được tuyển chọn theo học và tốt nghiệp bằng Cao học Kỹ thuật Hỏa tiễn Điều không (guided missle engineering) tại Đại học USC.
1964 được tuyển vào ban giảng huấn Võ bị Quốc gia Hoa Kỳ và trở lại West Point giảng dạy.
1965 tình nguyện sang Việt Nam, phục trong Đội 162, Bộ Tư lệnh Yểm trợ Quân sự Việt Nam (MACV Team 162). Đội 162 gồm các cố vấn thuộc binh chủng Nhảy dù Hoa Kỳ, và được bổ nhiệm về Tiểu đoàn 7 Nhảy dù, Lữ đoàn Nhảy dù của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
1965-1966 tham chiến trong các trận Pleiku, Đức Cơ, Ia Drang, Bồng Sơn, Tam Kỳ; là cố vấn trưởng cho Trung tá Ngô Quang Trưởng trong chiến dịch Ia Drang năm 1966 và được thăng cấp Thiếu tá; được tưởng thưởng 2 Anh dũng Bội tinh với ngôi sao sao bạc và 3 Anh dũng Bội tinh với ngôi sao đồng.
1967 trở lại West Point giảng dạy ngành bộ binh.
1968 được tuyển chọn theo học khóa Tham mưu Trung cấp (Command and General Staff College) tại Fort Leavenworth, Kansas và được thăng cấp Trung tá cùng năm.
1969, tình nguyện trở lại Việt nam, và được bổ nhiêm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/6, Lữ đoàn 198, Sư đoàn 23 Bộ binh Hoa Kỳ.
1970 trở lại Hoa Kỳ và phục vụ trong tại Phòng 1 Bộ Tổng tham mưu Quân lực Hoa Kỳ, Khối Bộ binh, tại Ngũ Giác Đài.
1972 được tuyển chọn vào Trường Cao đẳng Lục quân Hoa Kỳ (US Army War College).
1974 được thăng cấp Đại Tá, và được bổ nhiệm Lữ đoàn phó Lữ đoàn 172 Bộ binh thuộc Bộ Tư lệnh Alaska.
1976 được bổ nhiệm Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 1, Sư đoàn 9 Bộ binh và thăng cấp Chuẩn tướng.
1978 được bổ nhiệm Chỉ huy phó Phòng 3 Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương (S. Pacific Command).
1980 được bổ nhiệm Tư lệnh phó Sư đoàn 8 Bộ binh Thiết vận (8th Mechanized Infantry Division).
1983 được thăng cấp Thiếu Tướng và được bổ nhiệm Tư lệnh Sư đoàn 24 Bộ binh Thiết vận (24th Mechanized Infantry Division), thuộc Quân đoàn 18 Nhảy dù (XVIII Airborne Corps), Bộ Tư lệnh Trung Đông Quân lực Hoa Kỳ (US Central Command).
1984, được bổ nhiệm Tư lệnh phó Chiến Đoàn đặc nhiệm thủy bộ đổ bộ vào Grenada giải cứu các con tin Mỹ. Sau chiến dịch Grenada được thăng cấp Trung tướng.
1986 được bổ nhiệm Quân đoàn trưởng Quân đoàn I, với bộ tư lệnh tại Fort Lewis, Washington.
1987 được bổ nhiệm Tham mưu phó Lục quân (Army’s Deputy Chief of Staff).
1988 được thăng cấp Đại tướng và nhận chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh Trung Đông Quân lực Hoa Kỳ.
      – 1991 chỉ huy lực lượng Đồng Minh trong chiến Tranh vùng Vịnh (Gulf War) và trong vòng 4 ngày, đánh tan toàn bộ quân đội Iraq, bắt sống hơn 60.000 tù binh, giải phóng Kuwait. Với chiến công vùng Vịnh, được nhận rất nhiều huy chương của quân lực Mỹ và các nước đồng minh, gồm Anh, Pháp, Mỹ, và một số nước Trung Đông. Sau chiến thắng, từ chối không nhận chức vụ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ và về hưu cùng năm. (Theo Wilipedia).

6/- Lý Công Uẩn: Sinh ngày 12 tháng 02 năm GIÁP TUẤT (8-3-974), người châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (mất năm Mậu Thìn-1028). Thân mẫu họ Phạm, năm lên ba tuổi, bà mang con đến chùa Cổ Pháp, sư Lý Khánh Vân nhận làm con nuôi, đặt tên là Công Uẩn. Cậu bé Lý Công Uẩn được giao cho Sư Vạn Hạnh dạy dỗ, rèn luyện.

Có truyền thuyết kể rằng bà mẹ họ Phạm nằm mộng thấy thần chó đá và thụ thai. Sinh con trai, bà mang đến chùa Cổ Pháp và con chó bằng đồng của chùa bỗng sủa mừng; Sư cụ là Lý Khánh Vân cho là điềm lành, ứng vào sấm ký của chùa, nhận nuôi đứa bé và đặt tên Công Uẩn.

Lý Công Uẩn làm quan với nhà Tiền Lê đến chức Tả Thân Vệ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ. Nhà tiền Lê, đến vua Lê Long Đỉnh, bệnh hoạn, bạo ngược, tham dâm thì suy vi. Nhóm triều thần Đào Cam Mộc cùng với Sư Vạn Hạnh ngầm mưu lật đổ nhà Lê, khuyên Lý Công Uẩn nên ra tay cứu dân, giúp nước.

Năm Kỷ Dậu (1009). Lê Long Đỉnh (sử gọi là Lê Ngọa Triều vì khi thiết triều Long Đỉnh bị bệnh, chỉ nằm, không ngồi được) băng hà, Hữu Điện Tiền Chỉ Huy Sứ Nguyễn Đề đem quân vào cung trấn giữ, Đào Cam Mộc thúc giục Lý Công Uẩn hành động, cuộc đảo chính thành công dễ dàng vì lòng dân đã quá căm thù Lê Long Đỉnh. Lý Công Uẩn lên ngôi, tức Lý Thái Tổ, lúc đó ông 35 tuổi. Lý Thái Tổ đặt niên hiệu là Thuận Thiên, trị vì được 9 năm, băng hà ngày 03-3 năm Mậu Thìn (30-3-1028) hưởng dương 54 tuổi.

NGUYỄN CHÂU (sưu khảo).

 

BÀI VIẾT LIÊN QUAN
- Advertisment -

MỚI CẬP NHẬT

spot_img