Tại sao Trung Quốc không thể tấn công Đài Loan?

1
2710

Trong 70 năm qua, Trung Quốc và Hoa Kỳ đã tránh được thảm họa chiến tranh đối với đảo quốc Đài Loan. Nhưng một sự đồng thuận đang hình thành trong giới chính sách của Hoa Kỳ rằng nền hòa bình này có thể không kéo dài lâu hơn nữa. Hiện nay, nhiều nhà phân tích và hoạch định chính sách cho rằng Mỹ phải sử dụng toàn bộ sức mạnh quân sự để chuẩn bị cho chiến tranh với Trung Quốc ở eo biển Đài Loan.

Mời xem video bài bình luận qua Youtube

Có những lý do hợp lý để Hoa Kỳ tập trung vào việc bảo vệ Đài Loan. Quân đội Hoa Kỳ bị ràng buộc bởi Đạo luật Quan hệ Đài Loan năm 1979 để duy trì khả năng chống lại việc sử dụng vũ lực hoặc cưỡng chế đối với Đài Loan. Washington cũng có những lý do chiến lược, kinh tế và đạo đức mạnh mẽ để giúp hòn đảo luôn đứng vững. Là một nền dân chủ hàng đầu ở trung tâm châu Á, Đài Loan nằm ở cốt lõi của chuỗi giá trị toàn cầu. An ninh của quốc đảo này là một lợi ích cơ bản cho Hoa Kỳ.

Thước đo duy nhất để đánh giá chính sách của Hoa Kỳ là liệu nó có giúp duy trì hòa bình và ổn định ở eo biển Đài Loan hay không – chứ không phải liệu nó có giải quyết được vấn đề Đài Loan một lần và mãi mãi hay giữ Đài Loan vĩnh viễn trong vòng tay của Hoa Kỳ hay không.

Để gìn giữ hòa bình, Hoa Kỳ phải hiểu điều gì khiến Trung Quốc lo lắng, bảo đảm rằng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình không bị dồn vào chân tường và thuyết phục Bắc Kinh rằng chính sách “Một Trung Quốc” vẫn luôn được tôn trọng.

Hoa Kỳ suy đoán khá chính xác rằng Tập Cận Bình đang đẩy nhanh kế hoạch xâm chiếm Đài Loan. Chính vì thế, sự hỗ trợ của Hoa Kỳ dành cho Đài Loan sẽ không chỉ củng cố an ninh của hòn đảo mà còn cả khả năng phục hồi sự thịnh vượng của hòn đảo. Hỗ trợ Đài Loan cũng sẽ yêu cầu các khoản đầu tư mới của Hoa Kỳ vào các công cụ mang lại lợi ích cho hòn đảo ngoài lĩnh vực quân sự, bao gồm một chiến lược răn đe toàn diện hơn để đối phó với các chiến thuật vùng xám mang tính cưỡng chế của Bắc Kinh.

Trong những năm cuối cùng của Nội chiến Trung Quốc 1945–49, những người theo chủ nghĩa Quốc gia thua trận đã rút lui về Đài Loan, thiết lập một hiệp ước phòng thủ chung với Hoa Kỳ vào năm 1954. Tuy nhiên, vào năm 1979, Washington đã cắt đứt các mối quan hệ đó để có thể bình thường hóa quan hệ với Bắc Kinh. Kể từ đó, Hoa Kỳ đã làm việc để giữ hòa bình ở eo biển Đài Loan bằng cách ngăn chặn hành động của cả Trung Quốc và Đài Loan có thể dẫn đến xung đột hoàn toàn: đó là tuyên bố độc lập của Đài Bắc và Bắc Kinh buộc phải ra tay thống nhất.

Đôi khi, Hoa Kỳ đã kiềm chế Đài Loan khi lo ngại hòn đảo này đang tiến quá gần đến nền độc lập. Năm 2003, Tổng thống George W. Bush đứng cạnh Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo và công khai phản đối “các bình luận và hành động” do Đài Bắc đề xuất mà Hoa Kỳ coi là gây bất ổn.

Vào những thời điểm khác, Hoa Kỳ đã phô trương sức mạnh quân sự của mình trước Bắc Kinh, như họ đã làm trong cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan 1995–96, khi Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton cử một tàu Hàng không Mẫu hạm đến vùng biển ngoài khơi Đài Loan để đáp trả một loạt hành động của Trung Quốc.

Một điều cũng quan trọng đối với cách tiếp cận của Hoa Kỳ là những tuyên bố trấn an. Đối với Đài Loan, Hoa Kỳ đã đưa ra một cam kết chính thức theo Đạo luật Quan hệ Đài Loan năm 1979 nhằm “duy trì và thúc đẩy các mối quan hệ thương mại, văn hóa và các mối quan hệ thân thiện, gần gũi và rộng rãi” với Đài Loan và cung cấp cho hòn đảo này “những vũ khí có tính chất phòng thủ.”

Đối với Bắc Kinh, Hoa Kỳ đã liên tục tuyên bố rằng họ không ủng hộ nền độc lập của Đài Loan, kể cả trong Chiến lược An ninh Quốc gia năm 2022. Mục tiêu là tạo không gian cho Bắc Kinh và Đài Bắc tránh xa những xung đột hoặc đạt được một giải pháp chính trị nào đó.

Trong nhiều thập niên, cách tiếp cận này hoạt động tốt nhờ ba yếu tố:

  • Đầu tiên, Hoa Kỳ duy trì vị trí dẫn đầu lớn so với Trung Quốc về sức mạnh quân sự, điều này đã khiến Bắc Kinh không dám mạnh tay sử dụng lực lượng thông thường để thay đổi đáng kể các mối quan hệ giữa hai bờ eo biển.
  • Thứ hai, Trung Quốc chủ yếu tập trung vào phát triển kinh tế của riêng mình và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, cho phép vấn đề Đài Loan được gác lại.
  • Thứ ba, Hoa Kỳ đã khéo léo giải quyết các thách thức đối với sự ổn định xuyên eo biển, cho dù chúng bắt nguồn từ Đài Bắc hay Bắc Kinh, qua đó dập tắt bất kỳ mồi lửa nào có thể châm ngòi cho xung đột.

Tuy nhiên, ít nhất trong thập niên vừa qua, cả ba yếu tố này đã thay đổi. Phản ảnh sự thay đổi này với dẫn chứng là Tổng thống Joe Biden đã nhiều lần nói rằng Hoa Kỳ sẽ can thiệp quân sự để bảo vệ Đài Loan trong một cuộc xung đột xuyên eo biển.

Nhưng có lẽ sự thay đổi rõ ràng nhất là quân đội Trung Quốc đã mở rộng đáng kể khả năng quân sự của mình, nhờ vào hàng thập niên tăng cường đầu tư và cải cách. Năm 1995, khi Hoa Kỳ điều tàu USS Nimitz tiến về eo biển Đài Loan, tất cả những gì Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) có thể làm chỉ là đứng nhìn trong sự phẫn nộ.

Kể từ đó, chênh lệch sức mạnh giữa quân đội hai nước đã thu hẹp đáng kể, đặc biệt là ở vùng biển ngoài khơi bờ biển Trung Quốc. Giờ đây, Bắc Kinh có thể dễ dàng tấn công các mục tiêu ở vùng biển và không phận xung quanh Đài Loan, đủ khả năng tấn công các tàu Hàng không Mẫu hạm của Mỹ đang hoạt động trong khu vực, cản trở các tài sản của Mỹ trong không gian và đe dọa các căn cứ quân sự của Mỹ ở tây Thái Bình Dương, bao gồm cả những căn cứ ở đảo Guam và Nhật Bản.

Bởi vì quân đội Trung Quốc PLA có ít kinh nghiệm chiến đấu trong thế giới thực, nên hiệu quả chính xác của họ vẫn còn phải chờ xem. Mặc dù vậy, khả năng khai triển lực lượng của Bắc Kinh trong trường hợp xảy ra xung đột vẫn có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho các lực lượng của Hoa Kỳ và Đài Loan đang hoạt động xung quanh Đài Loan.

Bên cạnh việc phát triển khả năng quân sự của Trung Quốc, Bắc Kinh giờ đây sẵn sàng hơn bao giờ hết để đối đầu trực tiếp với Hoa Kỳ và các nước khác nhằm theo đuổi những tham vọng rộng lớn hơn của mình. Bản thân Tập Cận Bình có vẻ chấp nhận rủi ro hơn khi nói đến Đài Loan.

Về phần Bắc Kinh, họ tin rằng Hoa Kỳ muốn từ bỏ chính sách “một Trung Quốc” và sử dụng Đài Loan như một công cụ để làm suy yếu và chia rẽ Trung Quốc.

Dư luận ở Đài Loan không hài lòng về công thức hòa giải chính trị của Bắc Kinh, đó là chính sách “một quốc gia, hai chế độ”, trong đó Trung Quốc cai trị Đài Loan nhưng cho phép Đài Bắc một số quyền tự quản lý về kinh tế và hành chính. Công chúng Đài Loan đặc biệt hoài nghi về ý tưởng này bắt đầu từ năm 2020, khi Bắc Kinh hủy bỏ lời hứa cung cấp cho Hồng Kông “mức độ tự trị cao” cho đến năm 2047 bằng cách áp đặt luật an ninh quốc gia cứng rắn.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiểu rằng, công thức “một quốc gia, hai chế độ” của họ không có giá trị gì ở Đài Loan và xu hướng dư luận trên hòn đảo này khác với cư dân Hong Kong.

Những lo lắng của Mỹ đã tăng lên bởi những phân tích cho rằng Trung Quốc có thể lợi dụng sự mất tập trung của Mỹ ở Ukraine để chiếm Đài Loan bằng vũ lực bất ngờ với chiến thuật chớp nhoáng khiến Mỹ không kịp trở tay và có thể phải thúc thủ khi sự việc đã rồi.

Nhưng trên thực tế, không có bằng chứng thuyết phục nào cho thấy Trung Quốc đang hành động theo một lịch trình cố định để chiếm Đài Loan, và nỗi lo lắng ngày càng tăng ở Washington chủ yếu là do khả năng quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc hơn là bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy Tập Cận Bình đang chuẩn bị tấn công hòn đảo này.

Bắc Kinh đã bóp nghẹt các liên kết của Đài Loan với phần còn lại của thế giới và cố gắng thuyết phục người dân Đài Loan rằng lựa chọn duy nhất của họ để tránh bị tàn phá là thuận theo các điều kiện của Bắc Kinh.

Và bằng cách thổi phồng mối đe dọa về một cuộc xâm lược của Trung Quốc, các nhà phân tích và quan chức Hoa Kỳ đang vô tình gieo rắc nỗi sợ hãi ở Đài Loan. Họ cũng đang gửi tín hiệu tới các công ty và nhà đầu tư toàn cầu rằng hoạt động trong và xung quanh Đài Loan có nguy cơ cao bị cuốn vào một cuộc xung đột quân sự.

Ví dụ, nếu Hoa Kỳ đẩy Trung Quốc vào chân tường bằng cách cho quân nhân đóng quân vĩnh viễn tại Đài Loan hoặc đưa ra một cam kết phòng thủ chung chính thức khác với Đài Bắc, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể cảm thấy sức nặng của áp lực dân tộc chủ nghĩa và có những hành động quyết liệt có thể tàn phá hòn đảo này.

Tuy nhiên, về phía trung Quốc, việc đơn phương mạo hiểm chiến tranh với Hoa Kỳ vì Đài Loan sẽ không phù hợp với chiến lược của Tập Cận Bình. Tầm nhìn của ông ta là khôi phục Trung Quốc như một cường quốc hàng đầu trên trường thế giới và biến Trung Quốc thành một “quốc gia xã hội chủ nghĩa hiện đại”. Do đó, một cuộc chiến với Hoa Kỳ và cả Đài Loan sẽ là thảm họa cho tương lai của Trung Quốc.

Nếu Bắc Kinh tiến hành quân sự ở Đài Loan, hành động của họ sẽ cảnh báo phần còn lại của khu vực Châu Á về việc Trung Quốc có thể tiến hành chiến tranh để đạt được các mục tiêu của mình, có khả năng sẽ khiến các nước châu Á khác vũ trang và đoàn kết cùng nhau để ngăn chặn sự thống trị của Trung Quốc.

Xâm lược Đài Loan cũng sẽ gây nguy hiểm cho khả năng tiếp cận tài chính, dữ liệu và thị trường toàn cầu của Bắc Kinh – điều này rất nguy hiểm đối với một quốc gia phụ thuộc vào nhập khẩu dầu, thực phẩm và chất bán dẫn.

Ngay cả khi giả sử Bắc Kinh có thể xâm chiếm Đài Loan thành công, Trung Quốc sau đó sẽ phải đối mặt với vô số vấn đề nan giải khác. Nền kinh tế của Đài Loan sẽ bị tàn phá, bao gồm cả ngành công nghiệp bán dẫn vô giá trên toàn cầu. Vô số thường dân sẽ chết hoặc bị thương, và những người sống sót sau cuộc xung đột ban đầu sẽ nhận thức thù địch dữ dội với đội quân xâm lược. Bắc Kinh có thể sẽ phải đối mặt với các biện pháp trừng phạt và trừng phạt ngoại giao chưa từng có. Xung đột ngay ngoài khơi bờ biển phía đông của Trung Quốc sẽ làm mất khả năng của một trong những hành lang hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới, kéo theo những hậu quả tai hại cho nền kinh tế chuyên về xuất khẩu của chính Trung Quốc. Và chưa kể một cuộc chiến với Hoa Kỳ vì Đài Loan, có thể cuốn Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc Đại Lợi và các đồng minh của Hoa Kỳ tham gia.

Trong hơn 70 năm qua, Bắc Kinh đã kết luận rằng cái giá phải trả cho một cuộc xâm lược Đài Loan vẫn còn quá cao, trên thực tế, Bắc Kinh đang bị mắc kẹt trong một ngõ cụt chiến lược của chính họ. Sau khi Bắc Kinh chà đạp lên quyền tự trị của Hồng Kông, không ai có thể tin rằng Trung Quốc sẽ giải quyết cuộc khủng hoảng ở eo biển này thông qua chính sách “một quốc gia, hai chế độ”.

Lời kết:

Một cuộc đối đầu trực tiếp giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ tàn phá nhiều khu vực địa chính trị và tổn thương, mất mát, hậu quả sẽ kéo dài qua nhiều thế hệ.

Chính vì thế, Hoa Kỳ nhận biết rằng, cần phải duy trì hòa bình và ổn định, củng cố niềm tin của Đài Loan vào tương lai của họ, và chứng minh một cách đáng tin cậy với Bắc Kinh về một quy tắc “Một Trung Quốc” vẫn luôn được tôn trọng, trong thế kỷ 21 này, những vụ xâm lược, chiếm đất, thôn tính một quốc gia hay khu vực không còn thích hợp và bây giờ càng không phải là lúc để gây ra một cuộc đối đầu trực tiếp.

Cả hai vị lãnh đạo, Tổng thống Joe Biden và chủ tịch Tập Cận Bình đều hiểu rằng, nếu để chiến tranh xảy ra, sẽ không có bên nào thắng, một cuộc chiến đã kéo dài 10 tháng ở Ukraine là bài học trước mắt khi cả hai quốc gia đều thua và mất mát, chỉ có sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau mới có thể mang đến con đường tốt nhất cho hòa bình và ổn định ở eo biển Đài Loan.

Việt Linh 02.01.2023

1 COMMENT